Các loại lạm phát


Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia ra làm ba loại lạm phát khác nhau.


1. Lạm phát vừa phải xảy ra khi giá cả tăng chậm ở mức một con số hay dưới 10% một năm. Hiện ở phần lớn các nước TBCN phát triển đang có lạm phát vừa phải. Trong điều kiên lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương, hoặc cao hơn một chút do vậy đồng tiền bị mất giá không lớn, điều kiện kinh doanh tương đối ở định tác hại của lạm phát ở đây là không đáng kể.


2. Lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như 20%, 100% hoặc 200%… một năm. Khi lạm phát phi mã đã hình thành vững chắc, thì các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá hoặc theo hợp đồng ngoại tệ mạnh nào đó và do vậy đã gây phức tạp cho việc tính toán hiệu quả của các nhà kinh doanh, lãi suất thực tế giảm tới mức âm, thị trường tài chính tàn lụi, dân chúng thi nhau tích trữ hàng hoá vàng bạc bất động sản… Dù có những tác hại như vậy nhưng vẫn có những nền kinh tế mắc chứng lạm phát phi mã mà tốc độ tăng trưởng vẫn tốt như Brasin và Itxaraen. Về các trường hợp này cho đến nay chúng ta chưa đủ thông tin và các công trình nghiên cứu giải thích một cách có khoa học và có căn cứ.


3. Siêu lạm phát xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã, được các nhà kinh tế xem như là căn bệnh chết người và không hề có một chút tác động gọi là tốt nào. Người ta đã dẫn ra các cuộc siêu lạm phát nổ ra điển hình ở Đức năm 1920-1923, hoặc sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Trung quốc và Hunggari…

Xem xét các cuộc siêu lạm phát xảy ra người ta đã rút ra một nét chung là: thứ nhất tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên ghê gớm; thứ hai giá cả tăng nhanh và vô cùng không ở định; thứ ba tiền lương thực tế biến động rất lớn thường bị giảm mạnh; thứ tư cùng với sự mất giá của tiền tệ mọi người có tiền đều bị tước đoạt ai có tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn; thứ năm hầu hết các yếu tố của thị trường đều bị biến dạng bóp méo hoặc bị thổi phồng do vậy các hoạt động kinh doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ, song điều may mắn siêu lạm phát là hiện tượng cực hiếm. Nó đã xảy ra trong thời kỳ chiến tranh, sau chiến tranh.


Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối với nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt lạm phát cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và không được dự đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo, mọi thu nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ điều chỉnh hoạt động của mình theo thuớc do đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay những người có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm. Công nhân viên chức sẽ được tăng lương lên 10% một năm… Vậy là một cuộc lạm phát cân bằng và có dự đoán trước đã không gây ra một tác hại nào đối với sản lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập.


Trên thực tế hiếm có thể xảy ra một cuộc lạm phát như vậy, vì khi một khối lượng tiền tệ được ném thêm vào lưu thông, già cả mọi hàng hoá không vì thế mà tăng ngay, và nếu lạm phát chưa sang giai đoạn phi mẫ thí mức gia tăng mức đầu thường là thấp hơn mức tăng khồi lượng tiền tệ, do vậy nhà nước đã có lợi về thu nhập và ngay khi mức giá cả tăng lên ngang hoặc cao hơn mức tăng của khối lượng tiền tệ thì nhà nước vẫn có lợi vì giá trị tiền tệ của những người cho nhà nước vay tiền đã giảm đi. Chỉ đến khi toàn bộ giá cả kể cả lãi suất và tiền lương đều tăng theo mức lạm phát thu thu nhập của nhập của nhà nước mới cân bằng trên một mặt bằng giá cả mới. Hơn nữa trong thực tế rất khó dự báo được một chỉ số lạm phát ổn định, vì có khá nhiều yếu tố làm giá cả tăng vọt như: giá dầu mỏ đã tăng trong những năm70, hay trong sự kiện chiến tranh vùng vịnh.


Song có thể thấy một loại lạm phá vừa phải được điều tiết đã xuất hiện ở một số nươc có nền kinh tế thị trường. Loại lạm phát này có đặc trưng là mức độ lạm phát không lớn và ổn định, không tăng đột biến và nhà nước có thể điều tiết nó, tăng, giảm tuỳ theo các điều kiện cụ thể sao cho nó không gây ra các tác hại đáng kể cho nền kinh tế. Loại lạm phát này chỉ có thể xuất hiện ở những quốc gia mà ở đó bộ máy nhà nước đủ mạnh để kiềm chế tốc độ lạm phát khi cần. Sức mạnh cuả nhà thể hiện ở chỗ có đủ hiểu biết về lạm phát và các công cụ chống lạm phát( mà ngày nay đã có khá nhiều tài liệu nói đến), đồng thời phải có đủ ý chí và quyết tâm sử dụng các công cụ đó và giải quyết các hậu quả của nó. Trong những năm 80 ta đã thấy không ít quốc gia TBCN phát triển ở phương Tây đã làm được điều đó. Mức lạm phát mà họ duy trì được vào khoảng từ 3-6% một năm. Mức lạm phát này được xem như một chỉ số cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, lãi suất thực tế mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế.


Paul A. Samuelson còn nói tới một loại lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước. Sự không cân bằng sảy ra là vì giá cả hàng hoá tăng không đều nhau và tăng vượt mức tiền lương.


Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng bất ngờ cua lạm phát và do vậy tác dụng đieu chỉnh của thuế bị hạn chế ngay cả trong trường hợp nhà nước có thể “chỉ số hoá” luật thuế thích hợp mức lạm phát thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế.


Thứ ba, phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến giầu lên một cách nhanh chóng và những người có các hàng hoá mà giá của chúng không tăng hoặc tăng chậm, và những người giữ tiền bị nghèo đi.

Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản và vàng bạc… gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí.


Thứ năm, xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thi trường, làm cho các điều kiện của thị trường bị biến dạng hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ( lãi suất), giá cả lao động… một khi những giá cẩ náy tăng hay giảm đột biến và liên tục thì những yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.

Do những tác hại nêu trên, loại lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước về cơ bản là có hại cho hoạt động của thi trường.




Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:

  • cac loai lam phat
  • ,
    Previous
    Next Post »