Phương pháp giá vốn cộng lãi (Cost Plus Method or Mark Up Method)


Phương pháp giá vốn cộng thêm dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm  để xác định giá bán ra của sản phẩm cho các bên liên kết. Giá bán ra của sản phẩm  bằng giá vốn của sản phẩm cộng thêm cho một khoản lợinhuận hợp lý. Mức nâng  lợi nhuận này phải được xem xét tới tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản  xuất ra sản phẩm như giá trị tổng vốn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra  sản phẩm đó bao gồm cả TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình, các rủi ro cóliên quan.  Lợi  nhuận  nâng  lên  này  phải  được  tính  toán  sao  cho  giá  cả  chuyển  giao  trong  nghiệp vụ này có thể so sánh căn bản giá thị trường trong các nghiệp vụ mua bán  23 chuyển giao giữa một công ty là thành viên của MNC và một công ty độc lập hoặc  là giao dịch giữa hai công ty hoàn toàn độc lập với nhau.  Đối với phương pháp này, điều quan trọng là phải xác định phần lợi nhuận  tăng thêm bao nhiêu là hợp lý. Phần lợi nhuận nâng thêm này bị ảnh hưởng bởi các  yếu tố sau:


  Nếu công ty này chỉ sản xuất và thực hiện mua bán theo hợp đồng cho chỉ  mỗi công ty mẹ và không gia công cho bất cứ công ty nào khác thì phần lợi  nhuận tăng thêm này sẽ đựơc tính theo một tỷ lệ trên giá vốn sao cho hợp lý,  tức là phần lợi nâng thêm phải dựa trên cơ sở của loại hình hoạt động của  một công ty độc lập khác trên thị trường.


  Nếu công ty này sản xuất ra sản phẩm và bán theo các hợp đồng cho công ty  mẹ và bán theo hợp đồng cho các công ty độc lập khác thì tỷ lệ lợi nhuận  tăng thêm (phần lợi nhuận tăng thêm) cần phải được tính toán  và  phân bổ  theo tỷ lệ tổng vốn tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm. Ngoài ra cần  phải đối chiếu so sánh giá cả hàng hoá dịch vụ trong nghiệp vụ mua bán nội  bộ và nghiệp vụ mua bán với công ty độc lập.


  Ngoài ra còn các yếu tố như chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh sẽ  kéo theo một số các chi phí kèm theo sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi gộp (ví dụ  như công ty sản xuất theo hợp đồng, nghiên cứu, phát triển, tỷ trọng gia tăng  giá trị của sản phẩm so với quy mô đầu tư kinh doanh).


  Các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như các ràng buộc giao hàng vể thời gian,  số lượng  và chất lượng sản phẩm, lưu kho, lưu bãi,  điều khoản thanh toán  công nợ, chiết khấu.  Phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp hai phương pháp  nêu trên tỏ ra không hiệu quả, được sử dụng trong các trường hợp sau:


  Đối với công ty sản xuất, chế biến, lắp ráp, chế tạo và bán cho các bên liên  doanh liên kết, gia công chế biến sản phẩm và phân phối.


  Giao dịch giữa các bên liên kết thực hiện hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp  tác kinh doanh để sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm, hoặc thực  24 hiện các thoả thuận về cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu  ra.


  Giao dịch cung cấp dịch vụ cho các bên liên kết.

Previous
Next Post »