Các giải pháp huy động vốn cho đầu tư – phát triển nền kinh tế


1. Huy động từ nguồn trong nước


Nguồn vốn trong nước luôn được coi là nguồn chủ yếu, dự tính chiếm 2/3 tổng số vốn huy động cho đầu tư, phát triển.

Đây là nguồn nội lực có vai trò quyết định cho đầu tư phát triển, dự kiến huy động: từ Ngân sách Nhà nước sẽ chiếm khoảng 25%; tín dụng Nhà nước 14%; huy động từ các doanh nghiệp 28% và từ dân cư sẽ là 33%.


1.1 Huy động qua kênh NSNN:


– Tăng hiệu quả thu thuế, phí, lệ phí:

+ Quản lý chặt chẽ đối với số lượng và các loại hình kinh doanh.

+ Điều chỉnh mức thuế hợp lý.

+ Tăng cường chống thất thu các nguồn thuế bằng cách nắm chắc các nguồn thu, các đối tượng phải thu.

+ Đối với cơ chế quản lý thu: thu trực tiếp nộp vào kho bạc Nhà nước. Thực hiện triệt để đốc thu, chống dây dưa, nợ, đọng thuế để thu về Ngân sách kịp thời và đầy đủ nhất.

– Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu.


1.2. Phát huy tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên và tài sản công còn bỏ phí:


– Qui hoạch khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả.

– Mở rộng đấu thầu khai thác cho mọi thành phần (cá nhân, tổ chức trong nước, ngoài nước,…).

– Chú trọng việc “đổi đất lấy vốn”, nghĩa là Nhà nước xây dựng các công trình nhà cửa, hạ tầng cơ sở và chuyển giao mới lại cho các cá nhân, doanh nghiệp để thu hồi vốn ban đầu.

– Quản lý chặt chẽ hơn một số nguồn tài sản công do các đơn vị hành chính sự nghiệp, các lực lượng vũ trang nắm giữ.


1.3. Huy động vốn qua các tổ chức tín dụng – tài chính:


– Ngày một phát triển hơn nữa hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) về tổ chức quản lý cũng như về công nghệ.

+ Điều chính mức lãi suất hợp lý.

+ Ngày càng đơn giản hoá các điều kiện cho doanh nghiệp và dân cư gửi tiền tiết kiệm cũng như vay vốn từ Ngân hàng.

+ Mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ của hệ thống NHTM.

– Đa dạng hoá các hình thức tiết kiệm (như tiết kiệm chiều tối, tiết kiệm bằng ngoại tệ…).

– Phát triển Hợp tác xã tín dụng, đặc biệt là quĩ tín dụng nhân dân ở xã, phường, thị trấn, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là nông dân vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống.

– Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng thuê mua đối với NHTM và các công ty tài chính.

– Thu hút vốn thông qua các hình thức khác:


+ Tiết kiệm bảo hiểm:


Giải pháp này tập trung vào phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ, thúc đẩy cạnh tranh của các Công ty bảo hiểm nhân thọ, thu hút các Công ty bảo hiểm nhân thọ tham gia mạnh mẽ hơn vào thị trường tiền tệ, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư vốn của các tổ chức bảo hiểm.


+ Tiết kiệm bưu điện:


Không ngừng nâng cao hiệu quả huy động vốn qua hình thức tiết kiệm bưu điện. Hiện nay đang có hai quan điểm phát triển của tổ chức này, đó là cho thành lập ngân hàng tiết kiệm bưu điện và hoàn thiện Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện.


1.4. Huy động vốn qua các Doanh nghiệp:


– Đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế giữa các Doanh nghiệp trong nước cũng như Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

– Tạo các điều kiện ưu đãi cho Doanh nghiệp mới hay Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.

– Tạo ra cơ chế bắt buộc DNNN sử dụng lợi nhuận sau thuế, đặc biệt là quĩ đầu tư phát triển của Doanh nghiệp để tái sản xuất.

– Nhà nước cần có các định chế tài chính hợp lý cho DNNN để Doanh nghiệp có thể:

+ Thay đổi cơ cấu vốn, tài sản phù hợp với mục tiêu kinh doanh.

+ Đánh giá lại nguồn tài nguyên giao cho DNNN quản lý để tính sát với giá trị sinh lời.


1.5. Huy động vốn qua dân cư:


Trong những năm qua hệ thống ngân hàng luôn chiếm trên 90% tổng số vốn huy động của dân cho đầu tư phát triển. Tính đến hết năm 2001, tổng nguồn vốn huy động trong dân của các TCTD trong toàn quốc lên tới khoảng gần 190.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, hiệu quả huy động vốn trong dân của hệ thống Ngân hàng cho thực hiện CNH – HĐH theo chiến lược do Đại hội IX đề ra sẽ không cao nếu chúng ta không đề cập đến những giải pháp:


– Ngân hàng tạo sự tin tưởng và nâng cao hiểu biết của dân đối với hoạt động ngân hàng.

Ngoài tuyên truyền, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, cán bộ ngân hàng phải gần gũi, giúp đỡ, tư vấn, góp ý một cách trung thực, chân thành cho dân trong việc tiết kiệm và sử dụng tiền. Phải giải thích để dân thấy được những lợi ích và sự an toàn khi gửi tiền vào Ngân hàng trước mắt cũng như lâu dài.


– Giúp dân xoá được thói quen để tiền ở nhà.

Muốn hạn chế việc dân để tiền ở nhà, Ngân hàng cần phải khuyến khích mở tài khoản cá nhân để dân chúng gửi tiền chi tiêu qua Ngân hàng. Bí mất tuyệt đối số dự trên tài khoản và những chi tiêu của chủ tài khoản. Cải tiến giờ giấc làm việc không nên làm việc theo giờ hành chính nhất là các quầy tiết kiệm.

– Khuyến khích tinh thần tiết kiệm để làm giàu, nhân điển hình trong dân chúng.

Có chính sách hướng dẫn tiêu dùng để tiết kiệm, có biện pháp đối với những thói tiêu dùng lãng phí, xa xỉ. Đồng thời Ngân hàng nên có chính sách cho vay phù hợp để tạo vốn cho sự phát triển kinh tế hộ gia đình… nhằm tăng nguồn thu.


1.6. Huy động qua thị trường chứng khoán (TTCK):


Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK. Trước mắt cần sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh cho hệ thống và phù hợp với thực tiễn, yêu cầu phát triển của thị trường. Trong đó chú trọng tới việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 48/1998/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn; về dài hạn, nghiên cứu xây dựng Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó ngoài những quy định về CK & TTCK còn có những quy định rõ ràng về địa vị pháp lý của UBCKNN cho phù hợp với vai trò quản lý nhà nước về TTCK trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thực hiện các giải pháp tăng cường hàng hoá cho TTCK. Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ qua TTGDCK để huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng; phát hành trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư cho nhu cầu đầu tư phát triển; khuyến khích tăng số lượng công ty phát hành chứng khoán ra công chúng, gồm các doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.


Xây dựng và mở rộng hoạt động của các Trung tâm tài chính, các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường; nâng quy mô vốn, mở rộng phạm vi và loại hình nghiệp vụ của các Công ty CK; phát triển các tổ chức đăng ký chuyển nhượng chứng khoán; phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm; xây dựng trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập;…


Đi đôi với việc phát triển của TTCK, cần phải tiếp tục triển khai nhanh chóng và hiệu quả việc áp dụng thông lệ quốc tế và quản trị công ty, trong đó có việc nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kiểm toán độc lập.

Tăng cường hoạt động kiểm tra và giám sát thị trường thông qua việc tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; xây dựng hệ thống các chỉ tiêu giám sát đối TTCK; tăng cường công tác phổ biến pháp luật về CK & TTCK để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điều hành và quản lý TTCK…


Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, trong đó chú trọng tới hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của TTGDCK; nối mạng giữa các công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầi tư để tạo điều kiện tiếp cận thông tin và tham gia thị trường cho người đầu tư ở tất cả các địa phương trong cả nước cũng như các nhà đầu tư ở nước ngoài…

Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về CK & TTCK trên các phương diện: Tư vấn chính sách phát triển và quản lý thị trường, xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK, đào tạo đội ngũ cán bộ; từng bước mở cửa và hội nhập với các TTCK trên thế giới theo các lộ trình mà chúng ta đã cam kết.


Có thể nói, TTCK là một kênh huy động vốn có hiệu quả của nền kinh tế thị trường và có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội. Do vậy, các giải pháp để nâng cao khả năng huy động vốn của TTCK cần có sự vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình, điều kiện và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong từng thời điểm cụ thể. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả cao nhất của TTCK, và hạn chế đến mức thấp nhất những khuyết tật và rủi ro của thị trường.


2. Huy động từ vốn nguồn nước ngoài


Đây là một nguồn lực có ý nghĩa quan trọng. Theo tính toán, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển 1996 – 2000 và cân đối các nguồn đảm bảo thì số vốn huy động từ nước ngoài phải đạt khoảng 50% tổng số vốn cần thiết. Việc huy động vốn từ nước ngoài chủ yếu là dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn từ vay nợ, viện trợ.


2.1. Cải thiện môi trường pháp lý:


Việc cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ hơn nữa trở nên vấn đề cấp bách đối với Việt Nam, nhất là phải cạnh tranh với các nước trong khu vực về vấn đề này trong bối cảnh đầu tư nước ngoài của toàn thế giới đang có xu hướng giảm sút mạnh.

Cần rà soát lại các văn bản, quy định có liên quan đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài như lĩnh vực cấp phép đầu tư có điều kiện, lĩnh vực yêu cầu phải xuất khẩu theo một tỷ lệ nhất định, các lĩnh vực mới cho phép làm thí điểm như kinh doanh siêu thị nhà ở, vui chơi có thưởng, đua ngựa, casino, bảo hiểm 100% vốn nước ngoài.


Đẩy mạnh cải cách hành chính hơn nữa, giản tiện các thủ tục giấy tờ, phân cấp mạnh mẽ cho địa phương, đẩy mạnh chống tiêu cực trong tất cả các khâu: cấp giấy phép, thủ tục xuất nhập khẩu, giải phóng mặt bằng và giao quyền sử dụng đất, thuê lao động, chuyển thu nhập ra nước ngoài.


Thực hiện cơ chế giá bình đẳng, tức một giá đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực: vé máy bay và các loại phương tiện giao thông khác, cước phí bưu chính viễn thông, giá điện nước…

Sửa đổi một số quy định về tiền tệ, ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài, như giảm tỷ lệ kết hối xuống còn 0%, tự do hoá thị trường giao dịch, ngoại hối, cho phép các dự án đầu tư nước ngoài và liên doanh được thế chấp quyền sử dụng đất vay vốn ngân hàng, cải tiến thủ tục về chuyển lợi tức và thu nhập của các nhà đầu tư về nước…


Điều chỉnh một bước thuế thu nhập cá nhân đố với người nước ngoài xuống mức trung bình trong khu vực. Điều chỉnh thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như phương pháp tính thuế thu nhập doạnh nghiệp đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.

Tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam ở nước ngoài, như thông qua Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước, mở các cuộc hội thảo ở nước ngoài, xây dựng các danh mục khuyến khích đầu tư đưa lên mạng…


Cải thiện cơ sở hạ tầng:

– Xây dựng hệ thống giao thông vận tải, điện, nước nối các vùng kinh tế, đặc biệt đối với vùng sâu vùng xa.

– Xây dựng mới và chọn lọc nâng cấp các tuyến đường quốc tế (đường hàng không và hàng hải).

– Xây dựng chuẩn theo qui định quốc tế trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,…

– Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, đặc biệt ưu tiên vốn cho các dự án này, nhanh chóng về giải phóng mặt bằng, về thủ tục…).

Chính phủ và các địa phương phối hợp đầu tư nâng cấp và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng các khu vực thu hút đầu tư nước ngoài.


2.2. Đào tạo nguồn nhân lực:


Nhà nước mạnh dạn đầu tư nguồn vốn từ ngân sách cho đào tạo nghề cho người lao động, cũng như giám sát chặt chẽ chất lượng đào tạo, cung cấp lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có ngoại ngữ, có sức khoẻ, có tác phong công nghiệp… cho các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, cũng như đi xuất khẩu lao động, thu hút vốn ngoại tệ về cho đất nước. Bên cạnh đó cần có quy chế cán bộ Việt Nam tham gia các vị trí trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.

– Đầu tư trang thiết bị phù hợp vào các chuyên ngành trong các trường dạy nghề, trường kỹ thuật…

– Phát triển các quĩ đào tạo.

– Kết hợp chặt chẽ ngành Giáo dục đào tạo với các Doanh nghiệp.

– Nâng cao chỉ số HDI.

– Trau dồi ngoại ngữ, vi tính, kiến thức kinh tế, am hiểu đầu tư nước ngoài.

– Có tư chất đạo đức.

– Ràng buộc về quyền lợi, với trách nhiệm cho cán bộ (đặc biệt là cán bộ quản lý và chuyên trách).


2.3. Huy động vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài:


Từ nhiều năm qua, Chính phủ Việt Nam đánh giá rất cao vai trò của đầu tư nước ngoài đối với phát triển kinh tế – xã hội. Điều này thể hiện rất rõ trong hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành và tiếp tục được bổ sung, sửa đổi từ năm 1987 cho tới nay. Trong thực tế, những năm qua đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng cho tiến trình cải cách và phát triển của kinh tế Việt Nam. Tính đến cuối năm 1998, tổng số vốn đăng ký của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 30 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện khoảng trên 10 tỷ USD. Ngành công nghiệp trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hàng năm có tốc độ tăng trưởng lớn nhất (khoảng 20%) và tăng trưởng xuất khẩu ở mức trên 20% đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mở rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước trên thế giới. Hiện nay và trong tương lai, Việt Nam vẫn tiếp tục chủ trương mở rộng các biện pháp tăng cường khuyến khích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: nghiên cứu để đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục, minh bạch hoá chính sách, thực hiện ưu đãi về tài chính và thuế theo đúng Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, hoàn thiện chính sách vay và trả nợ sao cho đạt hiệu quả cao hơn… tiến dần tới thực hiện bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

2.4. Huy động vốn từ nguồn vay nợ, viện trợ:


Đối với vốn huy động từ nguồn vay nợ, viện trợ mà một bộ phận lớn là vốn ODA sẽ được huy động để đầu tư vào những công trình quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển kinh tế – xã hội. Với nguồn vốn này, theo kế hoạch 1996 – 2000, Nhà nước dự kiến sẽ huy động ở mức khoảng 40% tổng số vốn huy động từ nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á và thế giới, nên khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã giảm mạnh, do vậy việc huy động vốn từ vay nợ và việc trợ nước ngoài có thể sẽ đòi hỏi cao hơn mức dự kiến.


Ngoài hai nguồn vốn chủ yếu (đầu tư trực tiếp của nước ngoài và vay nợ, việc trợ), hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu để mở rộng thêm các hình thức vay như phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài. Hình thức huy động vốn này đang được nghiên cứu, xây dựng đề án và có thể sẽ được thực hiện trong một tương lai gần. Đối với Việt Nam, do nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, việc huy động vốn từ nước ngoài dưới hình thức ODA, FDI gặp nhiều khó khăn, nên chúng ta đã nghĩ đến việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu quốc tế và coi đó là nguồn vốn có tầm quan trọng về lâu dài.


Đặc biệt, để thúc đẩy huy động vốn nước ngoài mà không đi ngược xu thế chung của thời đại là hội nhập, chúng ta cần nỗ lực, xúc tiến việc ra nhập AFTA, WTO trong thời gian tới. Việc gia nhập này sẽ đem lại nhiều cạnh tranh song cũng rất nhiều lợi ích cho Việt Nam. Đặc biệt, việc ra nhập WTO sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam, giúp nước ta trở thành môi trường thuận lợi cho huy động vốn. Để ra nhập WTO, chúng ta phải chú trọng:


– Tiếp tục cải cách kinh tế cho phù hợp yêu cầu của WTO về giá, phí dịch vụ,…

– Mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà kinh doanh nước ngoài như lĩnh vực bảo hiểm, thông tin, kỹ thuật, tư vấn…

– Tạo điều kiện cho các thành viên ƯTO thâm nhập thị trường.

– Cam kết bảo vệ ở mức độ phù hợp về phát minh, sáng chế nhãn hiệu thương mại… (sở hữu trí tuệ).

– Cam kết thực hiện áp dụng thống nhất các chính sách thương mại trên phạm vi toàn cầu…

Tất cả những biện pháp trên sẽ giúp quá trình huy động vốn hiệu quả hơn và cũng giúp quá trình sử dụng vốn ở Việt Nam đạt chất lượng cao hơn, góp phần đẩy nhanh CNH – HĐH đất nước, đưa nền kinh tế Việt Nam ngày một phát triển.


Previous
Next Post »