Vốn chảy vào Việt Nam chủ yếu dưới dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vay nước ngoài (ODA và vay thương mại), và kiều hối.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn trung – dài hạn chủ yếu của Việt Nam. Hơn 10 năm qua, kể từ khi có Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đã đóng góp khoảng 30% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Bên cạnh đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ góp phần tích cực vào việc tăng nhanh tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mà còn góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo nhiều công ăn việc làm. Các dự án đầu tư nước ngoài tích cực tham gia vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, tạo thêm năng lực mới về sản xuất và xuất khẩu trong một số ngành quan trọng. Ngoài ra, ĐTNN cũng là một “kênh” đưa vào Việt Nam những công nghệ tiên tiến và góp phần tích cực cho tiến trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự kiến, trong kế hoạch 5 năm, 2001 – 2005, tổng vốn ĐTNN có thể lên tới 16 tỷ USD, tăng 24% so với 5 năm trước. Đó là dự báo rất lạc quan trong việc thu hút nguồn vốn nước ngoài để phát triển. Tuy nhiên, lĩnh vực đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều bất cập. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần xác định rõ rằng: (1) Mục tiêu quan trọng nhất không phải là số lượng vốn thu nhận được mà phải là hiệu quả kinh tế xã hội do nguồn vốn này đem lại; (2) Kết hợp hài hoà lợi ích trong nước với lợi ích của nhà đầu tư; (3) việc lựa chọn hình thức đầu tư và quy mô của dự án cũng phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực ngân hàng, với chủ trương chung của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam cho các tổ chức tín dụng (TCTD) quốc tế để qua đó thu hút hơn nữa vốn ĐTNN, nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trong nước, đưa vào áp dụng những dịch vụ, công nghệ ngân hàng hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ và thực hiện chuyển giao chính thức. Có thể nói rằng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều là những ngân hàng lớn, có uy tín, độ an toàn cao, khả năng cạnh tranh lớn và đã đóng góp một phần đáng kể trong việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Năm 2000, tổng dư nợ cho vay của các TCTD nước ngoài chiếm gần 13% thị phần.
Tài trợ phát triển chính thức (ODA): Bên cạnh nguồn vốn ĐTNN, nguồn vốn ODA cũng góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Theo số liệu của Chính phủ, kể từ năm 1993 đến nay, tổng giá trị các dự án và chương trình ODA đã đạt hơn 14 tỷ USD và giải ngân được khoảng 9,2 tỷ USD. Trong đó, tổng lượng vốn ODA được giải ngân trong năm 2001 đạt tới 1,75 tỷ USD, cao hơn con số 1,6 tỷ USD của năm 2000. Có thể nói rằng, khoảng cách giữa khoản tiền được giải ngân đang ngày càng thu hẹp lại. Điều này cho thấy các nhà tài trợ ngày càng tập trung vào việc sử dụng có hiệu quả vốn vay ODA tại Việt Nam. Trong năm 2002, các nhà tài trợ quốc tế cam kết hỗ trợ Việt Nam 2,4 tỷ USD vốn ODA. Góp phần lớn vào kết quả này là các khoản vay được giải ngân từ chương trình Miyazawa của Nhật và từ chương trình tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo năm 2001 của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà tài trợ thì tốc độ giải ngân vốn ODA trong thời gian qua tuy có tiến bộ nhưng vẫn còn chậm so với các nước trong khu vực. Việc giải ngân chậm đã làm cho các dự án ODA không thể đưa vào sử dụng đúng tiến độ, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của dự án.
Kiều hối: Trên thực tế, Chính sách kiều hối của Việt Nam đã thông thoáng hơn khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 170-TTCP ngày 19/8/1999, khuyến khích người Việt ở nước ngoài chuyển tiền về nước, trong đó bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân đánh trên kiều hối và cho phép được nhận kiều hối bằng ngoại tệ. Có thể nói rằng, trên bình diện vĩ mô, kiều hối đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư trong xã hội. Với lượng kiều hối ngày càng tăng (Năm 1998: 950 triệu USD; Năm 1999: 1.200 triệu USD; Năm 2000: 1.757 triệu USD), kiều hối đã trở thành nguồn nội lực không thể không xem xét khi đánh giá sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc nhận kiều hối bằng ngoại tệ cũng góp phần làm tăng tình trạng Đô la hoá, ảnh hưởng đến mục tiên quản lý ngoại hối là trên lãnh thể Việt Nam chỉ sử dụng Đồng Việt Nam.
Theo báo cáo phát triển năm 2002, Ngân hàng Thế giới dự đoán là để hỗ trợ cho chi phí cải cách và yêu cầu nhập khẩu, Việt Nam sẽ cần lượng vốn giải ngân (hoặc tổng nguồn vốn chảy vào) khoảng 2,7 tỷ USD trong năm 2002.
EmoticonEmoticon