Nhu cầu vốn để phát triển kinh tế


Việt Nam đang thực hiện quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời thực hiện mở cửa nền kinh tế từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế. Mục tiêu lớn của Việt Nam về phát triển kinh tế – xã hội đã được xác định rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ VIII với một quyết tâm rất cao là: Tới năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp. Muốn đạt được mục tiêu này thì vốn đầu tư hàng năm phải đạt mức 25 – 30% GDP. Do vậy nhu cầu vốn đối với Việt Nam là rất lớn.


Chính phủ đã có những giải pháp tích cực, kịp thời nên mặc dù trong bối cảnh như vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có những bước chuyển biến tích cực. So với năm 2001, nhịp độ tăng trưởng GDP năm 2002 dự kiến đạt khoảng 7%, giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 14,4% trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 11,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 19,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,7%. Sản xuất nông nghiệp chuyển dịch bước đầu về cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi, tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt 5%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước đạt 6,7%… Các cân đối lớn trong nền kinh tế nhìn chung được bảo đảm.


Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cũng có bước tiến đáng kể. Ước tính trong năm 2002, có khoảng 250 – 300 doanh nghiệp được cổ phần hoá; đã chuyển một số Tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Kết quả điều tra mới đây đối với 422 doanh nghiệp được cổ phần hoá trên 1 năm tại 15 tỉnh, thành phố cho thấy cổ phần hoá đã thực sự góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chuyển đổi, tăng động lực cho người lao động, cho doanh nghiệp. Khu vực kinh tế dân doanh cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Luật Doanh nghiệp, các chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển làng nghề… đã góp phần huy động tốt các nguồn lực trong các thành phần kinh tế đưa vào đầu tư phát triển. Thực thi Luật Doanh nghiệp từ năm 2000 tính tới tháng 10/2002 đã có khoảng 52.000 doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn đăng ký mới và bổ sung của các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp đạt khoảng 92.200 tỷ đồng (6 tỷ USD). Năm 2002, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 39% GDP. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì khả năng phát triển khá, tạo thêm một số mặt hàng mới, thị trường mới, tăng thêm sức cạnh tranh của sản phẩm, đóng góp khoảng 13,4% GDP năm 2002. Cho đến nay, có hơn 3600 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký hơn 38 tỷ USD, trong đó 1.900 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và hơn 1.000 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản. Năm 2002, số vốn cấp mới ước đạt trên 2 tỷ USD và số vốn thực hiện đạt 2,3 tỷ USD. Bên cạnh những kết quả tích cực, tình hình kinh tế xã hội 2002 còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất và chi phí dịch vụ của nhiều sản phẩm còn ở mức cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có chưa cao, cơ cấu đầu tư chưa thật hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm…


Kỳ họp thứ hai Quốc hội Khoá XI vừa thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2003 và quyết định một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm tới là: tốc độ tăng GDP khoảng 7,5%; giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 7%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7 – 8%; lạm phát dự kiến 4%; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 15% so với năm 2002 và bằng 35,2% GDP.

Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2001 ước thực hiện 150 nghìn tỷ đồng, bằng 30,8% GDP. Dự kiến, tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 sẽ đạt 175 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2001 và bằng khoảng 32% GDP.


Previous
Next Post »