Khái quát về Thị trường vốn


 


  Khi nói đến vốn với tư cách là một yếu tốđầu vào thực sự của quá trình sản xuất, chúng ta ngầm giảđịnh rằng, đó là nói đến vốn hiện vật chứ không phải là vốn tài chính.


Vốn hiện vậtđược hiểu là các dự trữ hàng hóa, vốn dĩđược tạo ra trong một quá trình sản xuất trước song lại được sử dụng để sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ khác.


Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, các công cụ sản xuất… là những hình thức biểu hiện khác nhau của vốn hiện vật. Chúng là những thứ nói chung là do con người tạo ra song lại không được sử dụng như những vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của con người. Chúng được sử dụng trong quá trình sản xuất như một yếu tốđầu vào bên cạnh các đầu vào khác như lao động, đất đai… Cùng với đất đai, vốn hiện vật là những tài sản hữu hình quan trọng của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Chúng là tài sản vì chúng có thể tồn tại và sử dụng lâu bền, có thể bảo lưu và giữ gìn giá trị trong một thời gian dài. Chúng mang tính chất hữu hình bởi vì chúng là những yếu tốđầu vào thực sự, tồn tại dưới dạng hiện vật mà người ta có thể sờ mó, cảm nhận được. Chỉ có vốn với tư cách là vốn hiện vật (đôi khi trong thực tế chúng ta thường nói tắt vốn hiện vật là vốn) mới thực sự là yếu tốđầu vào của quá trình sản xuất. Điều đó dĩ nhiên khác với vốn tài chính (tiền, các loại giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu…) là những thứ không thể sử dụng để trực tiếp tạo ra các hàng hóa hay dịch vụ khác được, mặc dù người ta có thể dùng chúng để mua hay chuyển đổi thành những yếu tố sản xuất thực sự.


1. Thị trường dịch vụ vốn hiện vật


 Như chúng ta đã một lần nói đến, dịch vụ thể hiện một dòng lợi ích người ta có thể thu nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, phát sinh từ những vật thể hữu hình hay sự phục vụ của người khác.


Dịch vụ vốn (hiện vật) chính là dòng lợi ích mà người ta có thể khai thác được ở hàng hóa vốn (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) trong một khoảng thời gian nào đó. Khi chúng ta muốn sử dụng dịch vụ của chiếc máy cày trong 8 giờđồng hồđể cày ruộng, chúng ta không phải mua cả chiếc máy cày đó mà chỉ cần thuê nó trong khoảng thời gian cần thiết trên. Thuê chiếc máy cày có nghĩa là ta đã tham gia vào thị trường dịch vụ vốn.


Thị trường dịch vụ vốn chính là thị trường thuê và cho thuê tài sản vốn. Cái mà người ta mua, bán ởđây không phải là chính bản thân tài sản vốn mà chỉ dịch vụ vốn. Đơn vị tính ởđây bao giờ cũng gắn với yếu tố thời gian. Ví dụ chúng ta không thể nói thuê 10 chiếc máy cày chung chung mà là thuê 10 chiếc mày cày trong 8 giờ. Lượng dịch vụ máy mà chúng ta thuê ởđây là 80 giờ máy. Giá cảởđây không phải là giá mua, bán tài sản vốn mà tiền thuê một đơn vị dịch vụ vốn.


* Cầu về dịch vụ vốn


–     Cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp


Cầu về dịch vụ vốn của một doanh nghiệp, cũng giống như cầu về lao động (hay đúng hơn là dịch vụ lao động), do doanh thu sản phẩm biên của vốn quyết định. Đường cầu về dịch vụ vốn thực chất là phần dốc xuống của đường doanh thu sản phẩm biên của vốn (MRPK). Áp dụng cách phân tích chung mà chúng ta đã tiến hành ở chương 7, có thểđưa ra ngay một số kết luận chính sau: 1) Đường cầu dịch vụ vốn là một đường dốc xuống chủ yếu phản ánh tính chất giảm dần của doanh thu sản phẩm biên khi lượng vốn sử dụng tăng lên. 2) Sự dịch chuyển của đường cầu dịch vụ vốn của doanh nghiệp (tức sự thay đổi trong nhu cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp) bị quy định bởi các yếu tố sau: i- số lượng các yếu tốđầu vào khác phối hợp với vốn. Nếu số lượng này tăng lên, sản phẩm biên của vốn sẽ tăng, cầu về dịch vụ vốn cũng sẽ tăng. Trong trường hợp này, đường cầu về dịch vụ vốn sẽ dịch chuyển sang phải (và lên trên). Ngược lại, nếu số lượng các yếu tố sản xuất khác không phải là vốn giảm, cầu về dịch vụ vốn cũng giảm, đường cầu về dịch vụ vốn sẽ dịch sang trái (và xuống dưới); ii- công nghệ sản xuất. Nếu doanh nghiệp có điều kiện áp dụng một cách thức hay một công nghệ sản xuất tiên tiến hơn, có năng suất cao hơn, sản phẩm biên của mỗi đơn vị vốn cũng tăng lên. Trong trường hợp này, đường cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp sẽ dịch chuyển sang phải. Sự thụt lùi về công nghệ, ngược lại, sẽ làm giảm nhu cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp mặc dù trường hợp này hiếm xảy ra; iii- giá cả hay doanh thu biên của sản phẩm đầu ra. Nếu những yếu tố này tăng, doanh thu sản phẩm biên ở từng đơn vị vốn đều tăng, do đó, cầu về dịch vụ vốn của doanh nghiệp cũng tăng. Trong trường hợp ngược lại, khi thị trường đầu ra suy thoái, giá cả hay doanh thu biên đầu ra giảm, cầu về dịch vụ vốn sẽ giảm.



–     Cầu thị trường về dịch vụ vốn


Cầu thị trường về một loại dịch vụ vốn phản ánh tổng hợp quan hệ giữa tổng sốđơn vị dịch vụ vốn mà các doanh nghiệp tham gia trên thị trường sẵn sàng mua tương ứng với các mức giá (tiền thuê vốn). Cách phân tích nhu cầu thị trường về dịch vụ vốn cũng tương tự như cách mà chúng ta đã áp dụng cho thị trường lao động. Đường cầu chung về một loại dịch vốn trên thị trường là đường tổng hợp theo chiều ngang các đường cầu của các ngành riêng biệt về cùng một loại dịch vụ này. Các xe tải chẳng hạn có thểđược sử dụng trong nhiều ngành khác nhau. Muốn biết nhu cầu thuê về xe tải nói chung, rõ ràng ta phải tổng hợp nhu cầu thuê xe tải ở ngành dệt, xây dựng, sản xuất và lắp ráp ô tô… lại với nhau. Còn đường cầu về một loại dịch vụ vốn của một ngành thì lại được xây dựng trên cơ sở tổng hợp theo chiều ngang các đường cầu tương ứng của các doanh nghiệp trong ngành. Vì giá các sản phẩm đầu ra thay đổi khi ngành thay đổi sản lượng nên đường cầu của ngành về dịch vụ vốn sẽ dốc hơn đường tổng hợp đơn giản theo chiều ngang các đường doanh thu sản phẩm biên về dịch vụ vốn của các doanh nghiệp.


Những yếu tố chi phối cầu và làm dịch chuyển đường cầu về một loại dịch vụ vốn của doanh nghiệp khi được nhìn nhận chung trên phạm vi cả ngành hay cả thị trường sẽ giúp chúng ta hiểu lý do làm nhu cầu về một loại dịch vụ vốn trên thị trường thay đổi. Khi chuyển từ phân tích cầu của doanh nghiệp sang phân tích cầu của thị trường, ta cần chú ý thêm đến số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành và số lượng ngành cùng sử dụng loại dịch vụ vốn mà ta đang phân tích. Về nguyên tắc, nếu số lượng này tăng lên (nghĩa là quy thị trường mở rộng) trong điều kiện các yếu tố khác là giữ nguyên, nhu cầu dịch vụ vốn tương ứng mà ta đang nghiên cứu cũng sẽ tăng lên và ngược lại.


* Cung về dịch vụ vốn


Cung ứng về dịch vụ vốn xuất phát từ những người sở hữu tài sản vốn. Chính những người sở hữu những chiếc xe tải, máy ủi đất… là những người cho thuê những yếu tố sản xuất này. Những người đi thuê (các doanh nghiệp) có thể sử dụng những đầu vào nói trên trong những khoảng thời gian nhất định nhờ hành vi đi thuê. Khi chính họ sở hữu những chiếc máy, họ cũng có thể sử dụng được chúng. Để tách thị trường dịch vụ vốn khỏi thị trường tài sản vốn, trong trường hợp này ta coi những doanh nghiệp sở hữu các tài sản vốn (mua hẳn các tài sản vốn: như sắm máy móc, thiết bị, xây nhà xưởng để sử dụng trong quá trình sản xuất chứ không đi thuê) đang cho chính mình thuê dịch vụ vốn một cách dài hạn.


Trong nền kinh tế, lượng cung ứng dịch vụ vốn của một người chủ sở hữu vốn hay của cả thị trường phụ thuộc vào tổng số dự trữ tài sản vốn. Lượng xe tải hiện có sẽ quy định số giờ xe có thể cho thuê được trong một khoảng thời gian nào đó. Trong một thời gian quá ngắn, dự trữ một loại tài sản vốn trong cả nền kinh tế gần như cốđịnh. Ví dụ, để xây dựng thêm một nhà máy, lắp ráp thêm một dây chuyền sản xuất người ta cần có thời gian. Lượng nhà máy hay dây chuyền sản xuất sẵn có trong nền kinh tếđược coi là cốđịnh trong một thời điểm nào đó. Trên cơ sở nhận xét này, người ta giảđịnh lượng cung về một loại dịch vụ vốn trong ngắn hạn của cả nền kinh tế là cốđịnh – đường cung tương ứng là một đường thẳng đứng. Tất nhiên, khẳng định như vậy chỉđúng một cách tương đối. Ngay cả trong ngắn hạn, dù tổng lượng tài sản vốn là cốđịnh, tổng lượng cung dịch vụ vốn vẫn có thể thay đổi theo mức tiền thuê. Vấn đề là người ta có thể sử dụng tài sản vốn cho cả những mục đích phi sản xuất hay cho những nhu cầu dự trữ cá nhân. Nếu tiền thuê quá thấp, lượng dịch vụ vốn được tung ra cung ứng thường không phải là lượng tối đa có thể cung ứng từ quỹ tài sản vốn hiện có. Tuy nhiên, khi tiền thuê vốn tăng lên, người ta có thể cho thuê vốn với tổng số giờ thuê cao hơn bằng cách hy sinh số giờ dịch vụ vốn được giữ lại làm dự trữ cho nhu cầu cá nhân. Ngoài ra, có nhiều tài sản vốn mà người ta có thể tăng dự trữ tài sản lên một cách không quá khó khăn, thậm chí trong một thời gian ngắn. Một người mua ô tô để cho thuê vẫn có thể dễ dàng sắm thêm những chiếc ô tô mới một khi thấy thị trường cho thuê ô tô đang mở rộng nhanh chóng. Vì lẽđó, khẳng định đường cung dịch vụ vốn trong ngắn hạn là một đường dốc lên song rất kém co giãn so với đường cung dịch vụ vốn trong dài hạn (trong dài hạn, những chủ sở hữu vốn dễ dàng thay đổi quỹ tài sản vốn để cho thuê của mình, dù tài sản đó là tài sản loại gì) có lẽ gần với sự thực hơn.


Trong ngắn hạn, đường cung dịch vụ vốn gắn với những tài sản vốn chuyên dụng, có tính đặc thù riêng của từng ngành, hoặc những tài sản vốn khó di chuyển hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng là một đường tương đối thẳng đứng ngay cả xét trong phạm vi ngành. Trong trường hợp này, dù tiền thuê vốn có tăng lên, ngành cũng không thu hút thêm được các dịch vụ vốn từ các ngành khác di chuyển sang. Tính chất cốđịnh hay kém co giãn của nguồn cung trong ngành thật ra cũng tương tự nhưđiều chúng ta đã khẳng định đối với cả nền kinh tế. Tuy nhiên, đối với những tài sản vốn được sử dụng ở nhiều ngành, đồng thời tính linh động hay khả năng di chuyển của chúng từ ngành nọ sang ngành kia cao, đường cung dịch vụ vốn của ngành trở nên co giãn hơn: khi tiền thuê vốn ở một ngành nào đó tăng lên, lượng cung về dịch vụ vốn sẽ tăng mạnh nhờ cả vào việc thu hút các tài sản vốn từ các ngành khác chuyển sang.


Quyết định mua sắm tài sản vốn để cho thuê của những người sở hữu vốn là một quyết định đầu tư có tính chất dài hạn. Vì vậy ởđây chúng ta sẽ tập trung vào phân tích khía cạnh dài hạn của quyết định cung ứng dịch vụ vốn. Xét về ngắn hạn, sự cung ứng dịch vụ vốn phụ thuộc nhiều vào lượng tài sản vốn đã mua sắm, do đó thực chất bị chi phối bởi các quyết định dài hạn.


Trong điều kiện thị trường dịch vụ vốn mang tính cạnh tranh, về dài hạn điểm cân bằng thị trường sẽ bảo đảm cho những người cung ứng có lợi nhuận kinh tế bằng không. Nếu lợi nhuận của những người cung ứng còn cao hơn mức này, sự nhập ngành của những người cung ứng mới sẽ làm nguồn cung dịch vụ vốn tăng lên, giá thuê vốn hạ xuống và lợi nhuận của những người cho thuê vốn giảm. Ngược lại, trong trường hợp lợi nhuận kinh tế của những người cho thuê vốn hiện hành là âm, thì sự rút lui khỏi ngành của một số người cung ứng sẽ là cơ chếđểđẩy lợi nhuận của những người cung ứng dịch vụ vốn còn lại lên. Vì vậy, giá thuê vốn cần có trong dài hạn chính là mức tiền thuê cân bằng dài hạn.


Nó đảm bảo cho những người sở hữu vốn (tức những người cung ứng dịch vụ vốn) có lợi nhuận kinh tế bằng không.


Giá thuê vốn cần có là mức tiền thuê vốn đảm bảo cho người sở hữu vốn bù đắp được tất cả các chi phí cơ hội cần thiết phát sinh từ việc cung ứng dịch vụ vốn (cho thuê vốn) và có mức lợi nhuận kinh tế bằng không.


Vậy đối với một người đầu tư mua sắm tài sản vốn (ví dụ mua sắm những chiếc ô tô tải ) để cho thuê, tức là những người coi việc cung ứng dịch vụ vốn là hoạt động kinh doanh của mình, những khoản chi phí cơ hội liên quan đến việc cho thuê một đơn vị vốn trong khoảng thời gian một năm mà người này phải gánh chịu, do đó phải được bù đắp là gì? Thông thường chúng bao gồm: 1) chi phí cơ hội của khoản tiền đầu tư phải bỏ ra để mua sắm tài sản vốn; 2) chi phí bảo dưỡng, khấu hao tài sản vốn; 3) chi phí giao dịch để tiến hành việc cho thuê.


Trước hết, để có thể tiến hành được việc cho thuê vốn, người kinh doanh dịch vụ vốn phải bỏ tiền ra mua sắm tài sản vốn. Chi phí cơ hội của việc sở hữu một đơn vị tài sản vốn chính là số tiền lãi mà người này phải hy sinh do số tiền được dành để mua tài sản vốn không thểđem cho vay được nữa. Giả sử giá mua một đơn vị tài sản vốn là 200 triệu đồng, lãi suất thực tế (tức mức lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát) trên thị trường là 5%, thì chi phí cơ hội của việc mua sắm và nắm giữ một đơn vị tài sản vốn trong 1 năm sẽ là: 200 triệu đồng × 0,05 = 10 triệu đồng. Giá thuê vốn (tiền thuê tính cho một đơn vị) cần có trong một năm trước hết phải bù đắp được khoản chi phí này.


Trong thời gian tài sản vốn được đem cho thuê, nó sẽ bị hao mòn hữu hình và vô hình theo thời gian và do việc sử dụng. Do đó giá trị của nó bị giảm đi. Tiền thuê vốn cần có cũng phải bù đắp được khoản giá trị mà chủ sở hữu vốn bị mất mát này. Nói cách khác, nó phải trang trải được các chi phí bảo dưỡng và khấu hao để duy trì giá trị tài sản vốn như cũ. Ví dụ, nếu trung bình mức độ hao mòn của tài sản vốn sau 1 năm sử dụng là 10%, thì chi phí bảo dưỡng, khấu hao của 1 đơn vị tài sản vốn trong ví dụở trên là: 200 triệu đồng × 0,1 = 20 triệu đồng.


Ngoài ra, để tiến hành kinh doanh cho thuê vốn, người sở hữu còn phải bỏ ra thời gian, công sức và một số chi phí giao dịch khác. Tiền thuê vốn cần có cũng phải bù đắp được tất cả các khoản chi phí cơ hội có liên quan đến hoạt động này. Chẳng hạn, giả sử khoản chi phí này bổđều cho 1 đơn vị tài sản vốn được đem cho thuê là 1 triệu đồng 1 năm thì trong tiền thuê vốn, 1 triệu đồng này phải được tính đến.


Trong ví dụ giảđịnh trên, giá thuê vốn cần có của 1 đơn vị vốn trong 1 năm là: (10 + 20 + 1) = 31 (triệu đồng).


Tổng quát hơn, nếu gọi r là lãi suất thực tế, d là tỷ lệ khấu hao, bảo dưỡng trung bình, c là tỷ lệ chi phí giao dịch khác so với giá trị của tài sản vốn và P là mức giá mua tài sản, ta có:


Giá thuê vốn cần có = P (r + d + c) (9.1)


Thật ra, trong đẳng thức (9.1), bộ phận chi phí cần được bù đắp thứ ba (c.P) thể hiện các chi phí nguồn lực khác (như lao động, văn phòng giao dịch…) tham gia hỗ trợ quá trình cho thuê vốn. Nó sẽ tạo ra thu nhập của các yếu tố sản xuất khác. Do đó, nếu xem như các yếu tố sản xuất khác tham gia vào quá trình kinh doanh đều được trả tiền thuê và khoản này được tách ra, thì giá thuê thuần túy cần có riêng của tài sản vốn, chỉ nhằm bù đắp những tổn thất cơ hội của riêng tài sản vốn sẽ chỉlà:


Giá thuê vốn thuần túy cần có = P (r + d) (9.2).


Đẳng thức này cho thấy giá thuê vốn cần có phụ thuộc vào 3 yếu tố: mức giá tài sản vốn, lãi suất, tỷ lệ khấu hao. Đây là cơ sởđể chúng ta hiểu đường cung dịch vụ vốn trong dài hạn.


Đường cung dịch vụ vốn thể hiện quan hệ giữa lượng dịch vụ vốn sẵn sàng được những người sở hữu vốn cung ứng tương ứng với các mức giá thuê khác nhau. Trong dài hạn, đường cung dịch vụ vốn phải là một đường dốc lên. Thật vậy, theo đẳng thức (9.2), với một mức rd nhất định, giá thuê vốn (thuần túy) cần có sẽ tỷ lệ thuận với mức giá tài sản vốn. Trong dài hạn, để lượng cung dịch vụ vốn trong cả nền kinh tế tăng lên, lượng tài sản vốn được mua sắm làm dự trữ vốn phải tăng lên. Tuy nhiên, để khuyến khích những người sản xuất tài sản vốn gia tăng sản lượng cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm tăng lên, giá bán tài sản vốn phải tăng (thật ra, điều này cũng chỉđể cân bằng lại với sự gia tăng trong chi phí biên sản xuất của tài sản vốn khi sản lượng của nó tăng lên). Từđẳng thức (9.2), có thể thấy, khi giá tài sản vốn P tăng, mức giá thuê vốn cần có cũng phải tăng lên theo. Nói cách khác, chỉ khi giá thuê vốn tăng lên, người ta mới được khuyến khích để có thể gia tăng được lượng cung dịch vụ vốn trong dài hạn, mà suy đến cùng là do lượng dự trữ tài sản vốn quyết định. Quan hệ thuận chiều giữa hai biến số này chứng tỏđường cung dịch vụ vốn dài hạn là một đường dốc lên.


Điều gì sẽ xảy ra khi các yếu tố nhưr, d thay đổi? Đẳng thức (9.2) cho thấy, nếu r hoặc d tăng lên, giá thuê vốn cần có cũng phải tăng lên ở mỗi mức cung dịch vụ vốn như cũ. Nói cách khác, đường cung dịch vụ vốn sẽ dịch chuyển lên trên (và sang trái). Ngược lại, nếu r hoặc d giảm, đường cung dịch vụ vốn sẽ dịch chuyển xuống dưới (và sang phải). Trên thực tế, r có thể thay đổi do ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế khác nhau. Còn tỷ lệ khấu hao d lại phụ thuộc vào cách thức và công nghệ liên quan đến quá trình sử dụng tài sản vốn.


Như chúng ta đã nói, cung ứng dịch vụ vốn xuất phát từ những người sở hữu tài sản vốn chứ không xuất phát từ các doanh nghiệp tức những người sử dụng vốn, khai thác dịch vụ vốn. Vì thế, đối với một loại dịch vụ vốn, những người cung ứng coi cả nền kinh tế như là thị trường để tham gia cung ứng. Việc phân tích đường cung dịch vụ vốn theo ngành vì thế ít có ý nghĩa hơn. Dĩ nhiên, ta có thể rút ra những nhận xét tương tự như khi chúng ta phân tích về thị trường lao động. Chẳng hạn, đối với một ngành nhỏ, nó sẽ không có khả năng ảnh hưởng đến giá thuê vốn chung trên thị trường. Vì thế trong dài hạn, nó có thể nhận được các lượng dịch vụ vốn nhưđòi hỏi theo mức giá thuê chung trên thị trường.


Điều này hàm ý cung ứng dịch vụ vốn của ngành tồn tại như một đường nằm ngang (hay ngành đối diện với một đường cung dịch vụ vốn nằm ngang). Trái lại, đối với một ngành lớn, sử dụng khối lượng tài sản vốn nhiều, chỉ khi mức giá thuê vốn tăng lên mới có thể thu hút được lượng cung dịch vụ vốn lớn hơn của nền kinh tế chảy vào ngành. Vì lý do này, đường cung của loại ngành này thường được hình dung như một đường dốc lên.



 


* Tiền thuê vốn cân bằng và sự điều chỉnh trên thị trường dịch vụ vốn


Trên một thị trường về một loại dịch vụ vốn, đường cầu thị trường D1được tổng hợp từ các đường doanh thu sản phẩm biên (hay giá trị sản phẩm biên nếu thị trường đầu ra tương ứng là thị trường cạnh tranh hoàn hảo) của vốn (MRPK) của các doanh nghiệp. Đồng thời đường cung ngắn hạn thị trường của loại dịch vụ vốn này là S1. Đểđơn giản, giả sửS1 là một đường thẳng đứng biểu thị lượng cung dịch vụ vốn trong ngắn hạn là cốđịnh. E là điểm cân bằng thị trường trong ngắn hạn vì nó là giao điểm của đường cầu D1 và đường cung S1. Giả sửđường cung dài hạn của thị trường về loại dịch vụ vốn này là đường SLR. Như ta đã biết, đó là một đường dốc lên. Giảđịnh E cũng là điểm cân bằng dài hạn. Nó cũng là giao điểm giữa đường SLRvới đường cầu D1. Tại điểm cân bằng E, mức giá thuê vốn cân bằng là R1.


Bây giờ ta giảđịnh vì một lý do nào đó, nhu cầu về loại dịch vụ vốn này tăng lên. Đường cầu D1 dịch chuyển sang phải thành đường D2. Ngay tức thời, lượng cung dịch vụ vốn là cốđịnh, không tăng lên được. Để thị trường cân bằng trở lại phù hợp với sự gia tăng của nhu cầu, giá thuê vốn trong ngắn hạn tăng nhanh lên thành R2. Dĩ nhiên, đó là mức giá quá cao so với giá thuê vốn cần có dài hạn. Mức giá cao này sẽ khuyến khích những người kinh doanh cho thuê vốn, trong khoảng thời gian dài hơn, sẽ mua sắm thêm tài sản vốn nhằm mở rộng hoạt động cho thuê. Đường cung ngắn hạn sẽ dịch chuyển dần sang phải. Tương ứng giá thuê vốn cũng sẽ giảm dần theo đà tăng lên của cung. Cho đến khi đường cung ngắn hạn dịch chuyển đến thành đường S2 và thị trường dịch chuyển đến một điểm cân bằng dài hạn mới F (F là giao điểm của cảD2 với S2SLR) thì quá trình gia tăng tài sản vốn mới dừng lại. Trong điều kiện đường cầu là D2, giá thuê vốn cân bằng dài hạn tăng lên từR1 thành R3, đồng thời lượng dịch vụ vốn được giao dịch cũng tăng. Mức giá thuê R3 tuy cao hơn R1 song lại nhỏ hơn R2 nhờ khả năng gia tăng được lượng dịch vụ vốn cho thuê đểđáp ứng nhu cầu cao hơn. Đến điểm F, thị trường hoàn thành quá trình điều chỉnh từ ngắn hạn sang dài hạn của mình. Trường hợp nhu cầu về dịch vụ vốn suy giảm cũng có thể phân tích theo một cách thức tương tự.



Chú ý rằng các yếu tố sản xuất được sử dụng cùng với nhau trong quá trình sản xuất sản phẩm đầu ra. Vì thế, một sự thay đổi trên một thị trường yếu tố có thể tác động đến thị trường các yếu tố sản xuất còn lại, đặc biệt là trong dài hạn. Chẳng hạn, sự tăng lương trên thị trường lao động không chỉ làm cho lượng cầu, do đó lượng lao động được các doanh nghiệp thuê mướn giảm đi. Sự kiện này còn có thể tác động đến cả thị trường dịch vụ vốn. Một mặt, lương tăng đồng nghĩa với chi phí sử dụng đầu vào lao động trở nên đắt đỏ hơn. Vì trong một chừng mực nhất định lao động và vốn có thể thay thếđược cho nhau nên người ta có xu hướng thay một phần lao động đắt đỏ bằng vốn. Theo hướng này, cầu về dịch vụ vốn sẽ gia tăng và đây được coi là kết quả của tác động thay thế xuất phát từ việc tiền lương tăng. Tuy nhiên, khi lượng lao động được sử dụng ít đi, sản phẩm biên của mỗi đơn vị vốn cũng giảm. Kết quả là doanh thu sản phẩm biên của vốn giảm và riêng trong hiệu ứng này (được gọi là hiệu ứng hay tác động sản lượng), cầu về dịch vụ vốn lại giảm. Khi cầu về sản phẩm trên thị trường đầu ra co giãn mạnh, những cắt giảm về sản lượng đầu ra do lượng lao động được sử dụng ít hơn trở nên mạnh hơn. Nhu cầu về các đầu vào khác vì thế cũng giảm. Trong trường hợp này, có thể dựđoán nhu cầu tổng hợp về dịch vụ vốn giảm.


2.Thị trường vốn hiện vật


Đối tượng mua, bán trên thị trường vốn hiện vật (chứ không phải là thị trường dịch vụ vốn) chính là tài sản vốn. Người mua tài sản vốn (máy móc, thiết bị…) là muốn sở hữu hoàn toàn nó. Người bán tài sản vốn cũng là người chuyển giao hoàn toàn quyền sở hữu tài sản vốn cho người khác. Giá mua, bán ởđây là giá mua, bán đứt tài sản vốn. Lượng giao dịch trên thị trường này là số lượng vốn hiện vật được đo theo những đơn vị tự nhiên của nó.


* Cầu về vốn hiện vật. Giá trị hiện tại của một tài sản


Nhu cầu mua tài sản vốn xuất phát từ những người muốn sở hữu tài sản vốn để cho thuê. Quyết định mua tài sản vốn trong trường hợp này là một quyết định đầu tư dài hạn nhằm thực hiện một dự án kinh doanh dựa trên cơ sở hoạt động cho thuê tài sản vốn. Để có thể lựa chọn và ra được quyết định một cách phù hợp, nhà đầu tư tiềm năng buộc phải cân nhắc các chi phí và lợi ích có liên


Chi phí mua một đơn vị vốn hiện vật (hoặc diễn đạt là một đơn vị tài sản vốn cũng vậy) chính là giá thị trường của nó.


Lợi ích của việc mua tài sản vốn nằm trong khả năng khai thác tài sản này dưới dạng cho thuê của người sở hữu. Do đó, dòng lợi ích mà người sở hữu nhận được từ một đơn vị tài sản vốn chính là luồng tiền cho thuê mà anh ta (hay chị ta) kiếm được khi cung ứng dịch vụ vốn trong suốt “cuộc đời” hay thời gian tồn tại tài sản này. Khó khăn để so sánh chi phí và lợi ích trong trường hợp này là ở chỗ: người ta chi ra hay thu về những luồng tiền này ở những thời điểm khác nhau. Không thể coi 1 triệu đồng chúng ta nhận được trong tương lai cũng có giá trị y như 1 triệu đồng chúng ta nhận được ngay tại thời điểm hiện tại (giảđịnh trong một thế giới không có lạm phát). Khi có 1 triệu đồng ngày hôm nay, hoặc chúng ta có điều kiện để mua sắm các hàng hóa cần thiết và thỏa mãn ngay tức khắc các nhu cầu của mình, hoặc chúng ta có thểđem cho vay để có thể có một khoản tiền lớn hơn 1 triệu đồng trong tương lai. Vì thế, 1 triệu đồng nhận được ngay ngày hôm nay (thời điểm hiện tại) có giá trị lớn hơn 1 triệu đồng nhận được trong tương lai. Hay cũng có thể nói cách khác, giá trị của 1 triệu đồng nhận được trong tương lai thấp hơn 1 triệu đồng nhận ngay tại thời điểm hiện tại.


Để giải quyết khó khăn trên, cần quy các dòng tiền nhận được hay chi ra ở những thời điểm khác nhau về giá trị tương đương của chúng tại một thời điểm nhất định. Việc quy tất cả các dòng tiền về giá trị hiện tại của chúng là một trong những cách như vậy.


Giá trị hiện tại của của một lượng tiền Xt nhận được (hay chi ra) ở thời điểm t trong tương lai chính là lượng tiền mà nếu ngày hôm nay chúng ta đem nó đi cho vay thì đến thời điểm t, nó cũng sẽ tích lũy thành


Xt.


Hãy ký hiệu PV(Xt) là giá trị hiện tại của Xt, và giả sửPV(Xt) = Y, đồng thời giả sử từ thời điểm hiện tại (ta ký hiệu là thời điểm 0) đến thời điểm t bao gồm t kỳ bằng nhau, (ví dụ nếu coi mỗi kỳ là một năm, thì thời điểm tđược hiểu là năm thứt tính từ thời điểm hiện tại). Nếu r là lãi suất thực tế của mỗi kỳ, thì nếu đem Y cho vay 1 kỳ, lượng tiền tích lũy được sẽ là Y(1+r). Nếu Yđược cho vay trong 2 kỳ, thì theo quy tắc lãi kép, thì


đến thời điểm kết thúc, lượng tiền Y ban đầu sẽ tích lũy thành                          Y (1 + r)(1 + r) = Y (1 + r)2. Còn nếu cho vay liên tục trong cả t kỳ thì lượng tiền cuối cùng tích lũy được sẽ bằng Y(1 + r)t.


Như vậy, một mặt ta có Y = PV(Xt), mặt khác ta lại có Y (1 + r)t = Xt. Kết quả là PV(Xt) = Xt / (1 + r)t.  Lượng tiền Xt nhận được (hoặc chi ra) trong tương lai sẽ có giá trị hiện tại nhỏ hơn Xt vì nó đã bị chiết khấu theo tỷ lệ     1/(1 + r)t như trong công thức mà chúng ta vừa nêu. Thời điểm t càng xa thời điểm hiện tại, mức độ chiết khấu sẽ càng lớn. Đương nhiên, khi t = 0, PV(Xt) sẽ chính bằng Xt. Giá trị hiện tại của 1 triệu đồng nhận được vào ngày hôm nay vẫn chính là 1 triệu đồng.


Với khái niệm giá trị hiện tại nói trên, những dòng tiền nhận được hoặc chi ra ở những thời điểm khác nhau, sau khi được quy về giá trị hiện tại của chúng, trở thành có thể so sánh, cộng hoặc trừđược với nhau:


Chúng đều được tính theo giá trị của cùng một thời điểm hiện tại.


Giá trị hiện tại của một tài sản.


Giả sử một tài sản K hàng năm đem lại cho người chủ sở hữu những khoản thu nhập nhất định. Vậy nên đánh giá giá trị của tài sản này như thế nào? Nếu đem tài sản này ra bán, nó cần được định giá là bao nhiêu ở thời điểm hiện tại. Khi chúng ta có thể quy được các khoản thu nhập từ tài sản mà người sở hữu có thể kiếm được trong tương lai về giá trị hiện tại của chúng, chúng ta đồng thời có thể xác định được giá trị hiện tại của tài sản. Nó chính là tổng giá trị hiện tại của toàn bộ các khoản thu nhập tương lai nói trên.


Gọi FV1, FV2,…, FVn là những khoản thu nhập mà người chủ sở hữu tài sản K lần lượt nhận được ở các năm thứ nhất, thứ hai, … thứn, tính sau thời điểm hiện tại. Năm thứn là năm cuối cùng mà tài sản K còn sinh lợi (nếu K là một tài sản vốn thì đến cuối năm n hoặc là nó bị thanh lý hoặc nó được đem bán lại. Số tiền thanh lý hay bán lại thu được nếu có vẫn được tính gộp vào khoản thu nhập của năm thứn). Với giảđịnh r là lãi suất tính cho thời hạn 1 năm, ta có giá trị hiện tại PV(K) của tài sản K bằng:


PV(K) = PV(FV1) + PV(FV2) + …+ PV(FVn)


= FV1/(1 + r)    +   FV2/(1 + r)2 +  … + FVn/(1 + r)n


(9.3)


Trong trường hợp đặc biệt, nếu K là một tài sản có thểđem lại nguồn thu nhập vĩnh viễn cho người sở hữu (hoặc người thừa kế) (ví dụđất đai chẳng hạn), đồng thời các khoản thu nhập phát sinh từ tài sản trong các kỳ là bằng nhau (nghĩa là FV1 = FV2 = …= FVn = …= FV), theo phương pháp trên, ta có thểđánh giá được giá trị hiện tại của tài sản K là: PV(K) = FV / r. Đề nghị bạn đọc tự kiểm tra và tự chứng minh kết quả này.


Bây giờ ta hãy trở lại với người chủ sở hữu vốn tương lai, người đang cân nhắc xem có nên đầu tư mua sắm tài sản vốn để cho thuê hay không. Với dự án kinh doanh dưới hình thức cho thuê tài sản vốn, người này phải dự kiến được những dòng thu nhập thuần túy mà việc cho thuê tài sản vốn mang lại trong tương lai (chỉ tính riêng phần tiền thuê do bản thân tài sản vốn mang lại). Quy những khoản lợi ích này về giá trị hiện tại của chúng, tổng hợp lại, chúng ta đánh giá hay dựkiến được giá trị hiện tại của một đơn vị tài sản vốn theo công thức (9.3). Đây cũng chính là giá trị hiện tại của các khoản lợi ích của dự án cho thuê vốn, tính bình quân cho một đơn vị tài sản vốn. Chi phí để mua sắm một đơn vị tài sản vốn chính là giá thị trường của nó. Để sở hữu tài sản vốn, nhà đầu tư tiềm năng phải bỏ ra khoản chi phí này ngay ở thời điểm hiện tại. Như vậy, giờđây cả chi phí và lợi ích đều đã được tính toán trên cơ sở giá trị hiện tại và do đó, chúng có thể so sánh được với nhau. Nếu giá trị hiện tại của tài sản vốn lớn hơn mức giá mua sắm nó, việc đầu tư vào tài sản vốn để cho thuê là công việc sinh lời. Dự án nên được thực hiện. Ngược lại, nếu giá trị hiện tại của tài sản vốn nhỏ hơn mức giá mua sắm nó, việc cho thuê trong tương lai được xem là thua lỗ. Dĩ nhiên, trong trường hợp này, không nên đầu tư mua sắm tài sản vốn.


Những người đầu tư khác nhau có thể có những dự kiến khác nhau về các dòng lợi ích của việc cho thuê vốn, do đó, có thể có những dự kiến khác nhau về giá trị hiện tại của tài sản vốn. Tuy nhiên, dù thế nào thì họ chỉđầu tư khi họ dự kiến giá trị hiện tại của tài sản vốn lớn hơn hoặc bằng mức giá thị trường của nó.


Chính kết luận vừa nêu cho phép chúng ta hiểu được đường cầu về một loại tài sản vốn trên thị trường là một đường dốc xuống. Khi mức giá của tài sản này giảm, mức cầu về tài sản vốn sẽ tăng lên vì số lượng dự án thỏa mãn điều kiện PV(K) ≥P(K) (giá trị hiện tại của tài sản lớn hơn hoặc bằng mức giá của nó) sẽ tăng lên. Ngược lại, khi giá tài sản tăng lên, chỉ những người có khả năng kinh doanh tốt mới dám dự kiến PV(K) ≥P(K). Một số người có mức dự kiến về các dòng lợi ích cho thuê thấp hơn sẽ từ bỏ dự án cho thuê của mình. Mức cầu về tài sản vốn vì thế sẽ giảm xuống.


Đường cầu về tài sản sẽ dịch chuyển khi những dự kiến chung của thị trường về giá trị hiện tại của tài sản vốn thay đổi. Điều đó liên quan đến: 1) các mức tiền cho thuê vốn dự kiến trong tương lai (đây chính là những khoản thu nhập FV trong tương lai mà chúng ta đề cập trong công thức (9.3)). Khi xu hướng vận động trên thị trường dịch vụ vốn cho phép mọi người chờđợi hay dự kiến mức tiền thuê vốn của một loại tài sản vốn nào đó cao hơn, cầu về tài sản này sẽ tăng và đường cầu dịch chuyển sang phải. Ngược lại, hiện tượng giá thuê vốn đang tụt dốc có thể làm thị trường dự kiến về giá thuê vốn thấp hơn trong tương lai, và điều này sẽ làm cầu thị trường về tài sản vốn giảm; 2) mức lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường nói chung tăng lên làm cho giá trị hiện tại của tài sản vốn giảm xuống. Cầu về tài sản vốn sẽ giảm. Ngược lại, cầu về loại tài sản này sẽ tăng nếu lãi suất chung trên thị trường giảm.


*   Cung về vốn hiện vật


Cung về vốn hiện vật hay tài sản vốn xuất phát chính từ những người sản xuất ra những tài sản này. Đối với người sản xuất, tài sản vốn hay vốn hiện vật đơn giản chỉ là những hàng hóa mà anh ta (hay chị ta) kinh doanh. Đối với người này, vốn không phải là đầu vào mà là sản phẩm đầu ra. Vì thế, quyết định cung ứng về vốn hiện vật thuộc loại quyết định của người sản xuất (các doanh nghiệp) trên thị trường đầu ra mà chúng ta đã đề cập trong các chương trước đây (chương 4, 5, 6). Đường cung thị trường vốn hiện vật điển hình trong trường hợp thị trường mang tính cạnh tranh là một đường dốc lên phản ánh tính chất dốc lên của đường chi phí biên. Nhìn chung, trong ngắn hạn, đường cung thường dốc hơn, kém co giãn hơn so với đường cung trong dài hạn. Những tính chất này về cơ bản chúng ta có thể rút ra được từ những mô hình đã nghiên cứu.


*   Giá cả của tài sản vốn


Cũng như các hàng hóa khác, giá cả cân bằng trên thị trường tài sản vốn được ấn định bởi tương tác giữa cầu và cung về tài sản vốn. Với một đường cầu D1 dốc xuống và đường cung S1 dốc lên như thể hiện trên hình 9.4 giá cân bằng P1 của tài sản vốn được xác định tương ứng với giao điểm của hai đường cầu, cung nói trên.


Khi các đường cung, cầu về tài sản vốn dịch chuyển, giá và lượng giao dịch cân bằng của tài sản này sẽ thay đổi. Chẳng hạn, khi cầu về dịch vụ của một loại tài sản vốn giảm sút khiến cho giá thuê loại tài sản này giảm xuống. Nếu sự sụt giảm này không phải là nhất thời mà được dự kiến là có thể kéo dài thì những người đầu tư vào tài sản vốn sẽ phải đưa ra dự kiến thấp hơn về giá trị của tài sản vốn (tức giá trị hiện tại của các khoản tiền cho thuê tài sản trong tương lai). Cầu về tài sản vốn sẽ giảm xuống. Đường cầu sẽ dịch chuyển sang trái thành đường D2. Kết quả chung là cả giá lẫn lượng giao dịch về tài sản vốn sẽ giảm xuống.



Trên thị trường, giá cân bằng dài hạn của một loại tài sản vốn vừa là mức giá đảm bảo cho những người sản xuất hàng hóa vốn sẵn sàng cung cấp với khối lượng vốn cân bằng (ví dụ, nếu thị trường là cạnh tranh hoàn hảo, mức giá này sẽđảm bảo cho những người sản xuất hàng hóa vốn có mức lợi nhuận kinh tế bằng không), vừa là mức giá mà những người mua vốn sẵn sàng trả – tức là mức giá bằng với giá trị hiện tại của tài sản vốn được dự kiến trên cơ sở các nguồn tiền cho thuê trong tương lai.

Previous
Next Post »