Kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt động chống chuyển giá



Trước năm 2008, Trung Quốc duy trì song song hai hệ thống thuế, một cho  doanh nghiệp trong nước và một cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc khảo  sát năm 2005 cho thấy hai hệ thống thuế tạo ra một sự chênh lệch về thuế suất có  hiệu lực gần 10% giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, điều này được các doanh  nghiệp nước ngoài ưa  chuộng. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 3 năm 2007, Quốc hội đã  ban hành Luật TNDN mới đã thống nhất một mức thế suất chung cho hai hệ thống  này. Thuế TNDN có hiệu lực từ ngày 01/01/2008, áp đặt một mức thuế suất thống  nhất 25% cho tất cả các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài nó cũng chú trọng  đáng kể về định giá chuyển giao, khuyến khích các giám sát chặt chẽ hơn các giao  dịch của các bên liên kết. Trung Quốc cũng gia tăng củng cố hệ thống thuế. Pháp  luật điều chỉnh chuyển giá hiện nay Trung Quốc đang áp dụng các quy định chủ yếu  29 theo các luật sau: Luật Thuế TNDN (2007);  Thực hiện Quy phạm pháp luật thuế  TNDN (2007); Thông tư Guoshuifa số 2 (2009).


Mục đích của thuế TNDN là để mang lại nhiều quy định về giá chuyển giao  cho Trung Quốc phù hợp với các quy tắc  áp dụng trong các nền kinh tế phát triển  khác trên thế giới. Nó cung cấp cho SAT cơ sở để điều chỉnh thu nhập chịu thuế của  người nộp thuế khi họ thực hiện các giao dịch với các bên liên kết chưa đúng theo  hướng dẫn của  “nguyên tắc  ALP”. Luật thuế này cũngyêu cầu những người nộp  thuế có liên quan đến giao dịch với các bên liên kết phải gửi tài liệu trình bày rõ về  giao dịch với bên liên kết đó cùng với tờ khai thuế hàng năm của họ. Người nộp  thuế cũng được yêu cầu nộp các tài liệu liên quan về giao dịch với các bên liên kết  như  giá  cả,  tiêu  chuẩn  xác  định  chi  phí,  phương  pháp  tính  toán  và  giải  thích  khi  được kiểm toán. Cụ thể Luật thuế TNDN qui định như sau: các doanh nghiệp có các  giao dịch tài sản hữu hình liên quan  đến các bên liên kết có giá trị hằng năm trên  200 triệu Nhân Dân Tệ hoặc có các  giao dịch giữa các bên liên  kết trên 40 triệu  Nhân Dân Tệ phải chuẩn bị tài liệu đương thời giải trình rõ.


Các qui định chống chuyển giá của Trung Quốc cũng xây dựng dựa trên cở  sở hướng dẫn của OECD, tuy nhiên luật chống chuyển giá của Trung Quốc có một  số điểm khác cơ bản so với luật chống chuyển giá của Mỹ như sau:


  Nghĩa  vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập đoàn  kinh tế có các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc sẽ chịu  thanh tra về thuế


  chống chuyển giá nhiều lần.


  Một điểm khác nữa là, khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn đề  nào đó


  về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận. Điều này  khác hoàn toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các vấn  đề về thuế được cơ quan thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp  nhận tại các tiểu bang khác.


  Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các  điều chỉnh về  định giá chuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho  tất  cả  các  loại  thuế  có  liên  quan  như:  thuế  TNDN,  thuế  GTGT,  thuế  xuất  nhập khẩu… Trong khi tại Mỹ chỉ áp đặt tính lại thuế TNDN mà thôi.


  Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa trên  các nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết. Nhưng tại Trung Quốc  thì cơ quan thuế Trung Quốc xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh bí  mật.


Đặc biệt ngoài  việc có lợi nhuận thấp hoặc lỗ, SAT còn tập trung  vào các  công ty chi trả số lượng lớn tiền bản quyền cho các bênliên quan ở nước ngoài hoặc  một tỷ lệ lớn các hoạt động kinh doanh chính của họ là giao dịch với các bên liên  quan.


Trung Quốc đồng thời cũng đưa ra các biện pháp xử phạt cụ thể đối với hành  vi chuyển giá. Điều 60-73 của Luật quản lý thuế quy định rằng hành vi vi phạm luật  có thể bị phạt tiền, và những vi phạm nghiêm trọng như trốn thuế, gian lận thuế có  thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật thuế TNDN Trung Quốc cũng nêu rõ, từ  sau ngày 01 tháng 1 năm 2008 các khoản thuế bị trả thiếu liên quan đến giao dịch  giữa các bên liên kết sẽ phải chịu một khoản lãi phí. Khoản lãi suất này được tính  bằng lãi suất cho vay cơ bản Nhân dân tệ của Ngân hàng Nhân Dân Trung Quốc  cùng kì cộng 5% phí. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp được các tài liệu và  thông tin liên quan khác theo quy định này thì 5% phí tăng thêm này có thể được  giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn.


Trung Quốc cũng khuyến cáo những hậu quả bất lợi mà những người không  tuân thủ quy định giá chuyển nhượng có thể gặp. Đó là người nộp thuế có thể sẽ bị  đưa vào một trong những mục tiêu đầu tiên cho một cuộc thanh tra về vấn đề định  giá chuyển  giao. Thông thường, người nộp thuế  không được chấp nhận tham  gia  vào các thỏa thuận giá trước.


Trung Quốc cũng đã nới lỏng các quy định để tham gia vào các thỏa thuận giá trước. Do đó các doanh nghiệp sẽ được tham gia nhiều hơn. Để hội đủ điều kiện  31 để trở thành  ứng viên cho APA các công ty phải có tổng giá trị các giao dịch hằng  năm với các bên liên quan lớn hơn 40 triệu Nhân Dân Tệ, đã chuẩn bị hoặc đã nộp  hồ sơ hàng năm và nộp hồ sơ tài liệu đương thời theo quy định của pháp luật. Đồng  thời công ty sẽ không tốn lệ phí khi nộp đơn cho APA.


Trong năm 2009, cơ quan Thuế Trung Quốc đã  đặc biệt tập trung vào các  chủ thể, công ty có giao dịch với các khu vực có luật thuế thấp hoặc có giao dịch  với  các  thiên  đường  thuế.  Ngoài  ra,  các  phòng  thuế  tại  các  thành  phố  thuộc  Bắc  Kinh và Thượng Hải và tại các tỉnh ven biển cũng đã rất tích cực trong việc thực  hiện hoạt động kiểm toán giá chuyển nhượng, các giao dịch liên quan đến tiền bản  quyền  và  phí  dịch  vụ  lao  động  cũng  được  kiếm  soát  chặt  chẽ  (kết  quả  khảo  sát  chuyển giá toàn cầu, Ernst & Young, 2009). Cũng theo nguồn này công bố, trong  những năm qua, cơ quan thuế đã tập trung vào các ngành may mặc, điện tử và viễn  thông, thực phẩm và nước giải khát, bán lẻ, công nghiệp, ô tô, dược phẩm, và các  ngành công nghiệp dịch  vụ, cũng  như  về các vấn đề tài chính liên quan đến xây  dựng cơ sở hạ tầng và các công ty có vốn đầu tư ra bên ngoài.


Hiện nay, các phòng thuế cũng tăng cường các công cụ như công nghệ thông  tin và cơ sở dữ liệu để hỗ trợ cho công tác chống tránh thuế. Phòng thuế cũng đang  gia tăng huấn luyện cho các chuyên gia chống trốn thuế bao gồm cả đào tạo ngắn  hạn và dài hạn, cả đào tạo trong nước và đào tạo nước ngoài. Ngoài ra, các sở thuế  cũng đã tuyển dụng thêm sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành liên quan để bổ  sung thêm vào lực lượng chống trốn thuế.

Previous
Next Post »