Việt Nam đang phấn đấu để trở thành một nước phát triển. Điều đó đòi hỏi phải thực hiện những chiến lược và chính sách đúng đắn trong từng thời kỳ, nhằm đẩy nhanh tốc độc phát triển. Vốn là nguồn lực đầu tiên và cơ bản của sự phát t riển và hiện đại hoá đất nước. Những chính sách huy động và sử dụng vốn thích ứng có hiệu quả là động lực cơ bản để phát triển và hiện đại hoá nhanh chóng đất nước.
Với thắng lợi của sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam và kết quả phấn đấu đạt và vượt những chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, Việt Nam đang chuyển qua giai đoạn mới đưa đất nước phát triển với nhịp độ cao hơn để khắc phục tình trạng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của giai đoạn mới. Có thể nói tốc độ phát triển của Việt Nam trong 5 năm qua đạt bình quân trên 8%/năm cùng với thành quả chống lạm phát đã giúp Việt Nam thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, nhưng chưa thể tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Do vậy, trong những năm tới nhiệm vụ phấn đấu thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và tụt hậu so với các nước xung quanh là vấn đề lớn, có thể nói là vấn đề sống còn của dân tộc Việt Nam trong thời điểm hiện nay. Có thể nêu một số số liệu sau đây để so sánh:
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trên 8% nhưng tỷ lệ tăng dân số là 2,2%.
– Tốc độc tăng trưởng kinh tế của Thái Lan là 8-9% nhưng tốc độ tăng dân số chỉ trên 1%.
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từ khi chuyển sang kinh tế thị trường thì 10 năm liền tốc độ tăng trưởng trung bình là 9%/năm, những năm gần đây tăng 11 –13%/năm, nhưng dân số cũng chỉ tăng trên 1%.
Như vậy, về GDP bình quân đầu người thì Việt Nam ngày càng tụt xa so với các nước đó. Do đó Việt Nam phải có tốc độ phát triển nhanh và bền vững trong nhiều năm đi đôi với hạ thấp tỷ lệ tăng dân số thì mới hy vọng tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Để làm được điều đó Việt Nam phải có đủ vốn. Đối với Việt Nam, bình quân để tăng thêm 1 đồng GDP thì phải đầu tư 3 đồng vốn. Do vậy, muốn có tốc độ tăng trưởng từ nay đến năm 2000 trung bình 9 – 10%/năm thì phải đầu tư vào nền kinh tế khoảng 50 tỷ USD. Trong khi đó khả năng nguồn vốn trong nước chỉ đáp ứng được theo quy hoạch đầu tư khoảng hơn 40% nhu cầu (tương đương với 20 tỷ USD) phần còn lại phải dựa vào bên ngoài.
Tỷ lệ đó được tính trên cơ sở mức tích luỹ trong nước còn thấp chỉ chiếm khoảng 10% GDP. Theo xu thế phát triển chung hiện nay thì tỷ lệ vốn trong nước sẽ tăng, vốn ngoài nước sẽ giảm dần khi nguồn tích luỹ trong nước tăng lên. Vấn đề quan trọng hiện nay là bằng cách nào để hàng năm Việt Nam thu hút được một lượng vốn khá lớn (ước tính 2 – 3 tỷ USD) đang nằm “đọng” trong nhân dân. Hơn nữa, số vốn huy động phải tăng lên trong những năm sau để đáp ứng nhu cầu đầu tư chung của đất nước.
Trước hết, cần có những quan điểm mới về tính chất đa dạng của nguồn vốn (không chỉ là tiền tệ, với các cấu thành phong phú: Vàng, ngoại tệ, nội tệ, giấy tờ có giá trị như một thứ “bán tiền tệ” khác, mà cả vật tư kỹ thuật, đất đai, lao động và tri thức khoa học…) cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, về việc huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn tiền tệ (được coi là nguồn vốn bao trùm nhất, linh hoạt nhất).
Thứ hai, phải coi trọng nguồn vốn trong dân cư và các doanh nghiệp, vì đây là nguồn vốn chủ yếu cho ngân sách và cho hệ thống tín dụng. Vốn đầu tư trong nước căn bản phải dựa vào tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Phải bằng mọi cách thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để sử dụng có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân.
Một trong những mục tiêu cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam 1996 – 2000 là phấn đấu tăng gấp 2 lần GDP trên mỗi đầu người vào năm 2000 (so với năm 1990), tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng GDP xấp xỉ 10%/năm. Để thực hiện được mục tiêu trên, vốn có vai trò rất quan trọng.
Thực hiện được mục tiêu tăng trưởng đó có ý nghĩa rất lớn:
– Đây là phương thức duy nhất để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế – xã hội giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
– Là điều kiện tiền đề để cải thiện từng bước mức sống của các tầng lớp dân cư, giảm tình trạng đói nghèo, thất học, lạc hậu vẫn còn phổ biến của một bộ phận không nhỏ của nhân dân hiện nay, đặc biệt tại các khu vực nông thôn, miền núi.
– Tạo ra bước ngoặt có tính chất quyết định để đất nước đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đạo hoá nền kinh tế cho những năm sau năm 2000.
Qua thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, người ta vẫn thấy rõ một điều: Giữa tăng trưởng và vốn đầu tư có mối quan hệ khá chặt chẽ, để đạt được mức tăng trưởng cao, cần thiết phải có mức tích luỹ và đầu tư lớn, ngược lại mức đầu tư lớn chỉ có thể duy trì dài hạn thông qua tỷ lệ tăng trưởng cao và ổn định. Các bảng số liệu bên dưới góp phần khẳng định điều nêu trên. Châu Phi do có mức đầu tư hạn chế – xấp xỉ 20%/năm so với GDP – cho nên hậu quả là mức tăng trưởng GDP qua các năm rất thấp, ước chừng 2,5%/năm. Trong khi đó, ở châu Á do liên tục duy trì được mức đầu tư trên 30%/năm, nên đã bảo đảm tốc độ tăng trưởng GDP khá tốt và ổn định, trên 6%/năm. Đi sâu vào từng nước được ghi nhận cho năm 1993, chúng ta cũng thấy có tình hình tương tự như vậy: Những nước có mức đầu tư cao đều có mức tăng trưởng khá nhanh như Malaixia, Thái Lan…, thậm chí có nước nhờ mức đầu tư khá cao (39%/năm) mà đã đạt thành tích tăng trưởng kỷ lục của thế giới như trường hợp Trung Quốc. Ngược lại, những nước có mức đầu tư thấp như Nepal, Pakistan, Miến Điện đã dẫn đến sự tăng trưởng trì trệ, chậm chạp, thậm chí suy thoái như trường hợp của Mông Cổ (-7,6%).
Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
EmoticonEmoticon