Chính những thất bại thị trường, những khiếm khuyết hay trục trặc của nó nói lên sự cần thiết cảu nhà nước. Nhà nước cần phải can thiệp vào các hoạt động của thị trường dưới các hình thức khác nhau, ở những mức độ khác nhau để làm cho nó vận hành tốt hơn, hiệu quả hơn. Đương nhiên, điều đó cũng giảđịnh rằng nhà nước có năng lực hay biết cách can thiệp vào các hoạt động của nền kinh tếđể sữa chữa các thất bại thị trường. Nói cách khác, các thất bại thị trường (theo nghĩa rộng bao gồm cả những khía cạnh khác ngoài khía cạnh hiệu quả) chính là các cơ sở khách quan lý giải sự cần thiết của hoạt động nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
1. Mục tiêu (chức năng), công cụ
Mục tiêu tổng quát mà nhà nước theo đuổi trong việc can thiệp vào nền kinh tế thị trường là nhằm sữa chữa các thất bại thị trường để sao cho nó có thể hoạt động hiệu quả hơn, công bằng hơn, ổn định hơn.
Để thực hiện mục tiêu trên, nhà nước có thể sử dụng nhiều loại công cụ khác nhau. Các dạng công cụ chính mà thường sử dụng để can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm sữa chữa các thất bại thị trường là :
* Luật pháp: Để nền kinh tế có thể vận hành một cách bình thường, nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý nhất định trong đó các quy tắc ứng xử phù hợp với các nguyên tắc thị trường được thiết lập. Nền tảng của các quan hệ thị trường là quan hệ mua bán trên cơ sở tự nguyện. Vậy các hành vi có tính chất cưỡng bức, bạo lực giữa các cá nhân nhằm chiếm đoạt của cải hay hàng hóa của nhau là không thể chấp nhận được. Trong trường hợp này, hệ thống luật pháp cần bảo vệ quyền sở hữu cá nhân về các tài sản. Chỉ khi nhà nước đứng ra bảo hộ quyền sở hữu chính đáng, hợp pháp của các cá nhân về các tài sản, họ mới có độ lực kinh doanh, tích lũy tài sản để làm giàu cho mình và cho xã hội. Hay một ví dụ khác: để các cam kết giữa các cá nhân liên quan đến các giao dịch hàng hóa, (đặc biệt giữa người sản xuất với những người cung ứng đầu vào hay những người kinh doanh, bán buôn hàng hóa đầu ra)… có hiệu lực nhằm tạo ra các quan hệ kinh tếổn định lâu dài giữa các chủ thể trong nền kinh tế, tạo nền tảng thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, nhà nước cần xây dựng luật hợp đồng kinh tế và bảo đảm cho nó được thực thi có hiệu lực. Khi có luật này, người ta không thể dễ dàng chối bỏ những nghĩa vụ mà mình đã cam kết với đối tác kinh doanh. Nhờđó, các giao dịch lớn, dài hạn có thể thực hiện được.
Một khi hệ thống luật pháp đã tồn tại, nhà nước lại có thể sử dụng nó để tác động vào nền kinh tế nhằm sữa chữa một loại thất bại thị trường cụ thể nào đó. Chẳng hạn, khi nhà nước đưa ra những luật lệ nhằm cấm các hành vi săn bắn, vận chuyển, mua bán những động vật quý hiếm, cấm khai thác rừng một cách bừa bãi, cấm dùng mìn đánh cá trên sông, trên biển…, thì trong trường hợp này, nhà nước muốn tác động vào các hành vi thị trường do xuất hiện các ngoại ứng tiêu cực. Bằng việc cấm đoán nói trên, nhà nước muốn bảo vệ môi trường sinh thái chung cho xã hội trước sự xâm hại bởi những hành vi tư lợi, ích kỷ của các cá nhân.
* Thuế khóa: Thuế là những khoản thu bắt buộc mà nhà nước áp đặt đối với các tổ chức hoặc cá nhân trong xã hội theo những quy tắc nhất định. Khi phải nộp thuế, một doanh nghiệp hay một cá nhân phải gánh chịu thêm một khoản chi phí do những hành vi của mình. Ví dụ, khi chưa bịđánh thuế, tại một điểm sản lượng nào đó, chi phí để doanh nghiệp sản xuất thêm một bao thuốc lá giả sử là 5000 đồng. Nếu mỗi bao thuốc bịđánh một khoản thuế là 2000 đồng, thì chi phí để sản xuất thêm một bao thuốc nói trên tăng lên thành 7000 đồng. Phản ứng lại điều đó, người nộp thuế sẽ cân nhắc và điều chỉnh lại hành vi của mình. Họ có thể sẽ không sản xuất hàng hóa ở mức sản lượng như cũ. Họ cũng có thể không đi làm nhiều như trước đây khi thu nhập của họ bịđánh thuế với thuế suất quá cao. Khi hàng hóa nhập khẩu ít bịđánh thuế hoặc được giảm thuế so với trước, dòng hàng hóa từ nước ngoài sẽ dễ dàng xâm nhập vào thị trường trong nước hơn. Những nhà nhập khẩu lẫn những nhà sản xuất hàng hóa cạnh tranh với hàng nhập khẩu ở trong nước đều sẽ phải thay đổi hành vi của mình trước sự thay đổi trong chính sách thuế của nhà nước.
Khi có thểđiều chỉnh hành vi của người sản xuất hay tiêu dùng, về nguyên tắc, nhà nước có thể dùng thuếđể sữa chữa một số thất bại thị trường thích hợp nào đó. Ví dụ, khi đánh thuế tài nguyên, nhà nước buộc những người sử dụng tài nguyên công cộng phải trả tiền khi khai thác nguồn lực chung. Nhờđó, sự khai thác môi trường quá mức có thểđược hạn chế. Về phương diện kinh tế vĩ mô, khi nền kinh tế rơi vào thời kỳ suy thoái, để kích thích nền kinh tế tăng trưởng trở lại, nhà nước có thể áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, trong đó giảm thuế là một phương án bên cạnh việc gia tăng chi tiêu của chính phủ.
* Chi tiêu của chính phủ: Chính phủ có thể thực hiện các khoản chi tiêu của mình thông qua việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ hay chi trợ cấp. Trong trường hợp thứ nhất, chi tiêu của chính phủ là một bộ phận trong tổng chi tiêu mua sắm hàng hóa hay dịch vụ của xã hội. Nó thường chiếm một tỷ trọng lớn, vì vậy, mọi sự thay đổi trong chính sách chi tiêu mua sắm của chính phủđều có ảnh hưởng vĩ mô quan trọng. Chẳng hạn, khi cần kích thích nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, chính phủ thường áp dụng chính sách kích cầu bằng cách tăng chi tiêu mua sắm hàng hóa, dịch vụ của chính phủ.
Tác động kinh tế vĩ mô không phải là tác động duy nhất của công cụ chi tiêu của chính phủ. Bằng các chính sách chi tiêu khác nhau, chính phủ có thểảnh hưởng đến các kết cục trên các thị trường cụ thể. Ví dụ, chi tiêu của chính phủ chủ yếu được dùng vào việc cung cấp các hàng hóa công cộng như quốc phòng, hệ thống luật pháp, an ninh, trật tự xã hội, đê điều, đường xá, bầu không khí trong lành… Những thất bại thị trường trên các thị trường y tế, giáo dục cũng được nhà nước sữa chữa một phần thông qua việc chi tiêu vào hệ thống y tế hay giáo dục công cộng. Chính phủ cũng dành những nguồn lực nhất định để cung cấp thông tin hoặc như một hàng hóa công cộng hoặc như một hành vi trợ giúp thị trường nhằm làm cho nó có thể hoạt động hiệu quả hơn.
Chi tiêu của chính phủ dưới dạng các khoản trợ cấp cho những người sản xuất hay tiêu dùng không trực tiếp là một bộ phận của tổng cầu (tổng chi tiêu) của xã hội. Tuy nhiên, sau khi được chuyển khoản từ ngân sách của nhà nước đến tay những người nhận trợ cấp, những khoản tiền này lại có thểđi vào vòng chu chuyển của nền kinh tế như là một khoản chi tiêu của các doanh nghiệp (nhà sản xuất) hay các hộ gia đình (người tiêu dùng). Điều quan trọng là có thể hiểu trợ cấp như một khoản thuế âm, do vậy nó có tác dụng điều chỉnh hành vi của người được nhận trợ cấp theo hướng ngược lại với thuế. Đây là cơ sởđể nhà nước có thể sử dụng trợ cấp như một công cụ can thiệp vào nền kinh tế. Với những hàng hóa mà nhà nước cần khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, với những hành vi tạo ra các ngoại ứng tích cực…thực sự những khoản trợ cấp của nhà nước có thể tạo ra những khuyến khích để thị trường cung cấp một sản lượng hàng hóa lớn hơn.
* Các chính sách kinh tế vĩ mô khác: Một loạt chính sách kinh tế vĩ mô khác ngoài thuế và chi tiêu của chính phủ cũng được nhà nước sử dụng như là các công cụ can thiệp vào nền kinh tế. Đó là các chính sách như chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập hay chính sách kiểm soát lương, giá; chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách xuất nhập khẩu… Đây trước hết là những chính sách kinh tế vĩ mô mà nhà nước thường sử dụng để thúc đẩy, duy trì sự tăng trưởng kinh tế dài hạn cũng nhưổn định hóa nền kinh tế trong ngắn hạn. Cách thức nhà nước sử dụng các công cụ này như thế nào để can thiệp và điều tiết nền kinh tế sẽđược nghiên cứu chi tiết ở môn kinh tế học vĩ mô.
2. Sửa chữa, khắc phục các khuyết tật thị trường
* Điều tiết độc quyền: Khi độc quyền tồn tại, sản lượng thị trường thường thấp hơn sản lượng hiệu quả trong lúc mức giá lại thường bịấn định cao (so với mức giá tương ứng trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo). Vì vậy, để lấy lại hiệu quả do độc quyền làm tổn thất, nhà nước phải tìm cách để buộc nhà độc quyền phải tăng sản lượng đến mức sản lượng hiệu quả. Có nhiều cách để thực hiện mục tiêu này. Thứ nhất, bằng cách cấm đoán tư nhân kinh doanh trên một thị trường độc quyền thuần túy hoặc quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất độc quyền tư nhân, nhà nước trực tiếp trở thành người sở hữu các doanh nghiệp độc quyền. Khi doanh nghiệp độc quyền là một doanh nghiệp nhà nước nó không được phép chỉ chạy theo mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Về lý thuyết, hoạt động của nó phải phục vụ mục tiêu tối đa hóa lợi ích ròng của xã hội, do đó, sản lượng mà nó (tức nhà nước) lựa chọn cũng phải là sản lượng hiệu quả. Bởi vậy, người ta cho rằng, quốc hữu hóa những cơ sở sản xuất độc quyền tư nhân là một giải pháp sữa chữa thất bại thị trường trong trường hợp độc quyền và nó từng được ưa chuộng một thời ở một số nước Tây Âu. Trên thực tế, độc quyền nhà nước cũng nhưđộc quyền tư nhân đều chứa đựng những yếu tố gây mất hiệu quả. Do vị thếđộc quyền, không hoạt động trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp không chiu áp lực trực tiếp để buộc phải đổi mới hệ thống quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hạ thấp chi phí, và giá thành hàng hóa… Trì trệ, kém năng động, cửa quyền, chất lượng phục vụ kém… là những hệ quả mà người ta thường thấy ở các doanh nghiệp độc quyền, kể cả doanh nghiệp độc quyền nhà nước. Do thiếu vắng cạnh tranh, việc nhà nước buộc doanh nghiệp phải hoạt động ở mức sản lượng hiệu quả Pareto có thể không đạt được mục tiêu: Không có doanh nghiệp đối thủđể nhà nước so sánh chi phí, doanh nghiệp có thể cung cấp hàng hóa ở mức sản lượng mà nhà nước yêu cầu với phí tổn xã hội cao. Trong trường hợp thua lỗ, doanh nghiệp có thể buộc nhà nước phải trợ cấp, bù lỗ. Khi bị nhà nước khống chế giá, doanh nghiệp có thểđối phó bằng cách hạ thấp chất lượng sản phẩm… Nói chung, việc duy trì các doanh nghiệp công cộng trong các ngành độc quyền không đưa lại những hiệu quả mà xã hội mong muốn. Thứ hai, kiểm soát giá đối với các doanh nghiệp độc quyền là phương án thay thế mà nhà nước thường sử dụng đểđiều tiết độc quyền. Trong trường hợp này, doanh nghiệp độc quyền tư nhân vẫn được chấp nhận.
Tuy nhiên, nó không còn được tự do định giá mà trái lại, bị nhà nước kiểm soát giá: Quá trình định giá của doanh nghiệp bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ và khống chế theo những quy tắc phê duyệt giá nhất định.
Có hai phương pháp kiểm soát giá: 1) kiểm soát giá trên cơ sở chi phí biên (P = MC); 2) kiểm sóat giá trên cơ sở chi phí trung bình (P = AC).
Khi áp dụng phương pháp kiểm soát giá trên cơ sở chi phí biên, doanh nghiệp buộc phải sản xuất ở mức sản lượng sao cho ởđơn vị sản phẩm cuối cùng, mức giá phải bằng chi phí biên. Theo quy tắc định giá đó, trong điều kiện sản lượng mà doanh nghiệp cung ứng ra vừa khớp với mức cầu trên thị trường để không có hiện tượng dư cung hay dư cầu, sản lượng của doanh nghiệp sẽ chính là sản lượng hiệu quả. Về mặt lý thuyết, mục tiêu của hoạt động điều tiết độc quyền đã đạt được.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc buộc doanh nghiệp phải định giá theo chi phí biên có thể làm cho nó thua lỗ. Đối với độc quyền tự nhiên, do chi phí cốđịnh quá lớn mà phần nhiều doanh nghiệp hoạt động trong miền đường chi phí trung bình đang dốc xuống. Trong trường hợp này, do đường MCđang còn nằm dưới đường AC nên nếu định giá P = MC, sản lượng mà doanh nghiệp phải lựa chọn tuy là mức sản lượng tối ưu đối với xã hội song lại dẫn doanh nghiệp tới thua lỗ. Tại mức sản lượng này, P < AC, do đó TR < TC, doanh nghiệp chỉ có mức lợi nhuận kinh tế âm. Doanh nghiệp sẽ không chấp nhận hoạt động một cách dài hạn trong điều kiện như vậy và nó sẽ rút lui khỏi ngành. Muốn duy trì hoạt động của doanh nghiệp và giữ nó lại trong ngành, nhà nước phải trợ cấp để bù lỗ cho doanh nghiệp.
Do những hạn hẹp về khả năng ngân sách, không phải lúc nào nhà nước cũng dễ dàng lựa chọn phương án trợ cấp cho doanh nghiệp. Một lựa chọn phổ biến hơn là: nhà nước kiểm soát giá đểđiều tiết hành vi và tác động vào sự lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp, buộc nó phải hoạt động ở mức có hiệu quả hơn đối với xã hội, song sự kiểm soát này phải đảm bảo sao cho doanh nghiệp vẫn có động cơở lại trong ngành lâu dài. Nhưđiểm cân bằng dài hạn trong ngành cạnh tranh hoàn hảo đã chỉ ra: doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động của mình một cách dài hạn khi lợi nhuận kinh tế của nó bằng không (= 0). Vì thế, người ta đưa ra phương pháp kiểm soát giá trên cơ sở chi phí trung bình. Theo cách này, doanh nghiệp phải lựa chọn sản lượng sao cho taịđơn vị sản phẩm cuối cùng, mức giá Pđúng bằng chi phí trung bình AC. Nhưở trên hình 10.7 , lúc này doanh nghiệp sẽ sản xuất ở mức sản lượng Q1 thay cho mức sản lượng Qm trước đây. Tại mức sản lượng Q1đó doanh nghiệp hòa vốn (lợi nhuận kinh tế bằng không). Tuy Q1 chưa phải là mức sản lượng hiệu quả Pareto (tức Q*), song so với mức sản lượng độc quyền trước khi bịđiều tiết Qm, mức sản lượng này lớn hơn rõ rệt. Nhờđó, tổn thất hiệu quả giảm xuống một cách đáng kể. Trong trường hợp này, nhà nước không cần phải bù lỗ song vẫn giữđược doanh nghiệp ở lại ngành một cách lâu dài.
* Xử lý ngoại ứng: Khi ngoại ứng xuất hiện, sản lượng thị trường thường lớn hơn hay nhỏ hơn mức sản lượng hiệu quả và điều đó gây ra tổn thất hiệu quả. Can thiệp của nhà nước trong trường hợp này không phải nhằm xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng gây ra ngoại ứng (ví dụ như xóa bỏ hoàn toàn việc gây ra ô nhiễm môi trường từ việc sản xuất hay tiêu dùng của các doanh nghiệp hay người tiêu dùng hầu như là điều không thể, trừ phi là xã hội phải dừng việc sản xuất hay tiêu dùng hoặc phải chấp nhận những phí tổn to lớn. Trong kinh tế học, người ta quan tâm đến mức ô nhiễm “tối ưu” hơn là mức ô nhiễm bằng không) mà là làm thế nào để quyết định của các bên có liên quan vẫn đem lại hiệu quảđứng trên quan điểm xã hội. Nói cách khác, chính sách xử lý ngoại ứng của nhà nước chỉ có hiệu quả khi nó được thiết kế sao cho các chi phí hay lợi ích xã hội vốn bị bỏ qua do sự xuất hiện của ngoại ứng lại được mọi người tính đến khi ra quyết định. Nếu làm được như vậy, thực chất không còn cái gọi “ngoại ứng”.
Vì hướng tác động đến hiệu quả của ngoại ứng tiêu cực và tích cực là khác nhau nên cách xử lý của nhà nước đối với chúng cũng cần phải khác nhau.
– Đối với ngoại ứng tiêu cực: hướng can thiệp tổng quát của nhà nước là làm cho sản lượng thị trường cắt giảm về sản lượng hiệu quả xã hội thông qua việc buộc những người (sản xuất hay tiêu dùng) gây thiệt hại có tính chất “ngoại ứng” (tức là loại thiệt hại mà người gánh chịu không được đền bù) cho người khác giờđây phải chịu trách nhiệm và trả tiền bồi thường về những thiệt hại mà mình đã gây ra. Khi phải tự gánh chịu các chi phí “ngoại ứng”, người sản xuất hay tiêu dùng sẽ phải cân nhắc để có các quyết định hợp lý. Hành vi của họ sẽđược điều chỉnh theo hướng cắt giảm sản lượng thị trường về mức hiệu quả xã hội. Để làm được như vậy nhà nước có thể sử dụng các công cụ hay cách thức cụ thể khác nhau như: thiết lập quy chế, luật lệđiều tiết ngoại ứng tiêu cực; thu thuế hay phí ngoại ứng tiêu cực; xác định các quyền sở hữu tài sản một cách rõ ràng…
Trong việc kiểm soát các hành vi gây ô nhiễm môi trường (một loại ngoại ứng tiêu cực điển hình và quan trọng nhất đối với xã hội), quy chế hay luật lệ của nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Chẳng hạn, nhà nước có thểđưa ra những quy định về bảo vệ môi trường bằng cách cấm đoán hoặc hạn chế những hoạt động xâm hại môi trường. Nhà nước có thểđề ra bộ tiêu chuẩn trong đó quy định mức ô nhiễm tối đa được phép đối với một hoạt động sản xuất nào đó. Khi doanh nghiệp vi phạm quy định này (sản xuất với mức gây ô nhiễm môi trường cao hơn mức được phép), nó sẽ bị trừng phạt (bị rút giấy phép kinh doanh, bị phạt tiền…). Với các quy chế kiểm soát ô nhiễm như vậy, doanh nghiệp buộc phải sử dụng những cách thức sản xuất, công nghệ sản xuất thích hợp, cho phép hoạt động sản xuất của nó đảm bảo được các tiêu chuẩn môi trường mà nhà nước quy định. So với khi không bị nhà nước điều tiết, giờđây chi phí sản xuất chung của doanh nghiệp tăng lên (do phải bỏ ra khoản chi phí đầu tưđểđổi mới công nghệ). Nhờđó, sản lượng mà nó cung ứng và sản lượng chung trên thị trường sẽ giảm xuống.
Không phải lúc nào nhà nước cũng dễ dàng kiểm soát “đầu ra” của ô nhiễm (môi trường). Đo lường mức ô nhiễm môi trường thực sự mà các doanh nghiệp gây ra luôn là công việc khó khăn, tốn kém. Trong một số trường hợp, để tránh việc này, nhà nước thay vì kiểm soát “đầu ra” lại áp dụng phương thức kiểm soát “đầu vào”: ví dụ, nhà nước quy định các doanh nghiệp trong một ngành cụ thể nào đó phải sử dụng các công nghệ ít gây hại về môi trường có tính chất chuẩn mực nào đó. Chắc chắn việc đầu tư cho những công nghệ ít gây hại cho môi trường này cũng gây ra những phí tổn nhất định cho doanh nghiệp. Vì thế, về nguyên tắc, nó cũng tác động đến hành vi của doanh nghiệp theo hướng tích cực đối với xã hội.
Đánh thuế ô nhiễm hay buộc doanh nghiệp phải trả phí ô nhiễm cũng là một hướng chính sách nhà nước có thể áp dụng để bảo vệ môi trường, đưa sản lượng thị trường về mức hiệu quả. Chẳng hạn, đường MCTN là đường chi phí biên tư nhân của các doanh nghiệp. Do quá trình sản xuất của các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường, nên nếu tính cả khoản chi phí này thì chi phí biên của xã hội MCXH sẽ phải cao hơn MCTN và do đó, đường MCXH sẽ nằm cao hơn đường MCTN. Khi chưa bị nhà nước điều tiết, sản lượng thị trường cân bằng ở mức QT, gắn với đường MCTN. Khi nhà nước thu thuế (hay phí) ô nhiễm, những thiệt hại xã hội do ô nhiễm môi trường giờđây trở thành một khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra đền bù. Đường chi phí biên tư nhân sau thuếMCTN sẽ trở thành đường chi phí biên xã hội MCXH. Kết cục là sản lượng thị trường sau thuế sẽ là sản lượng hiệu quả xã hội Q*, gắn liền với đường MCXH.
Trên thực tế, việc thiết kế mức thuế (hay phí) ô nhiễm chính xác là không dễ dàng. Vì thế, trong các trường hợp có thể, nhà nước thường áp dụng các giải pháp thay thếđơn giản hơn. Việc xác lập một cách rõ ràng các quyền sở hữu về các tài sản, nhất là đối với các nguồn lực chung, mỗi khi có thể thực hiện được là một ví dụ. Một bãi cỏ, một cánh rừng, một khu đất, một hồ nước thường bị người ta khai thác bừa bãi, sử dụng một cách không hiệu quả nếu chúng là sở hữu chung của cộng đồng. Ai cũng có xu hướng khai thác các tài sản trên để thu vén cho lợi ích riêng của mình, bất chấp điều đó làm tổn hại đến tài sản chung, lợi ích chung của cộng đồng. Đây cũng là một dạng thất bại thị trường liên quan đến ngoại ứng tiêu cực. Ngược lại, khi khu đất, hồ nước, cánh rừng trên trở thành tài sản của các cá nhân cụ thể, chúng sẽđược khai thác và sử dụng một cách hoàn toàn khác. Thất bại thị trường nói trên sẽ biến mất.
- Đối với ngoại ứng tích cực: Can thiệp của nhà nước trong trường hợp này là nhằm đưa sản lượng thị trường tăng lên theo hướng sản lượng hiệu quả xã hội. Trong trường hợp này, nhà nước buộc phải đưa ra những khuyến khích cần thiết để mọi người sẵn sàng sản xuất và tiêu dùng ở mức cao hơn. Công cụ chủ yếu được nhà nước sử dụng ởđây là trợ cấp.
Giả sử trên một thị trường nhất định, việc tiêu dùng hàng hóa của những cá nhân trực tiếp mua sắm hàng hóa đem lại ngoại ứng tích cực cho cả những người khác (những người không mua hàng hóa, không trực tiếp “sử dụng” hàng hóa song vẫn được hưởng lợi từ việc tiêu dùng của người khác). Trong trường hợp này, nếu MUTN thể hiện độ thỏa dụng biên của các cá nhân trực tiếp mua hàng hóa, thì nó thấp hơn độ thỏa dụng biên xã hội MUXH (MUXH bao gồm cảđộ thỏa dụng của những người trực tiếp mua hàng lẫn độ thỏa dụng của cả những người được “ăn theo”). Khi tham gia vào thị trường, những người mua hàng chỉ cân nhắc, mặc cả trên cơ sởMUTN của chính mình, do đó, đường cầu thị trường chỉ phản ánh đường MUTN. Sản lượng thị trường cân bằng ở mức QT, thấp hơn sản lượng hiệu quả xã hội Q* (mức sản lượng gắn với đường cầu phản ánh đường MUXH). Đểđẩy sản lượng từQT lên Q*, nhà nước có thể trợ cấp cho những người tiêu dùng khi họ mua sắm hàng hóa nói trên chẳng hạn.
Khi có trợ cấp, lợi ích của mỗi cá nhân khi mua sắm hàng hóa, ngoài lợi ích thông thường trước đây, còn bao gồm lợi ích tiền bạc do được hưởng khoản trợ cấp. Đường MUTN sau trợ cấp của họđược đẩy lên trên, hướng vềđường MUXH. Nhờ vậy, sản lượng thị trường sau khi có trợ cấp sẽ tăng lên, và trong trường hợp lý tưởng, mức trợ cấp được thiết kế chính xác đểMUTNsau trợ cấp trở thành MUXH, sản lượng này sẽ trở thành sản lượng hiệu quảQ*.
* Cung cấp hàng hóa công cộng: Do hiện tượng “kẻăn không” trở thành phổ biến và thị trường tư nhân không thể cung cấp được những hàng hóa công cộng như quốc phòng, đê điều, an ninh trật tự xã hội, hệ thống luật pháp… thì việc nhà nước phải đứng ra trực tiếp cung cấp các hàng hóa này được coi là đương nhiên. Chỉ có trong trường hợp như vậy, xã hội mới có được những hàng hóa quan trọng, cần thiết. Những hàng hóa nhưđê điều, quốc phòng… không thể cung ứng được trong khuôn khổ các giao dịch tựnguyện tư nhân. Việc cung ứng chúng luôn gắn với nhà nước dưới các hình thức khác nhau. Bằng cách thu thuếđể bù đắp các chi phí cung ứng hàng hóa, nhà nước có thể cung cấp hàng hóa miễn phí cho dân chúng, do đó, không phải bận tâm về hiện tượng “kẻăn không”.
Đối với một số trường hợp khác, thị trường tư nhân có thể cung cấp được hàng hóa công cộng song thường lại cung cấp ở mức không hiệu quả. Như trường hợp cầu, đường lúc vắng người, việc thu lệ phí cầu, đường của phương thức cung cấp tư nhân làm cho mức tiêu dùng không thểđạt đến điểm hiệu quả (cầu đường không được sử dụng hết công suất mà nó có thể phục vụ xã hội). Để sữa chữa khuyết tật này của thị trường, nhà nước cũng phải đứng ra cung cấp hàng hóa thay cho thị trường. Việc nhà nướcđảm nhiệm việc cung cấp hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế chính là xuất phát từ lý do này.
Cần lưu ý rằng, việc nhà nước phải đứng ra cung cấp hàng hóa công cộng không đồng nghĩa với việc nhà nước đứng ra sản xuất trực tiếp các hàng hóa này. Trong nhiều trường hợp (ví dụ cung cấp cầu, đường), nhà nước chỉ là người bỏ tiền ra để mua sắm hàng hóa. Bằng cách đặt hàng cho khu vực tư nhân, nhà nước không cần phải trực tiếp sản xuất hàng hóa.
* Cung cấp thông tin: Có hai hướng để nhà nước khắc phục sự thiếu hụt thông tin trên thị trường: 1) cung cấp thông tin bổ sung cho thị trường; 2) đưa ra những quy chế về cung cấp thông tin đểđiều tiết các giao dịch trên thị trường tư nhân.
Việc nhà nước tổ chức thu thập hay sản xuất thông tin để cung cấp thông tin bổ sung cho thị trường thường liên quan đến những thông tin có thể sử dụng chung cho nhiều người. Thông tin ởđây cũng là một loại hàng hóa công cộng. Thông tin về dự báo thời tiết chẳng hạn là một loại thông tin quan trọng thường được nhà nước cung cấp miễn phí. Thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô, về một thị trường xuất khẩu mới (ví dụ thị trường Hoa Kỳ), về chất lượng nhiều loại hàng hóa (ví dụ nhà nước đóng dấu chất lượng cho thực phẩm đã được kiểm dịch hay kiểm tra chất lượng)… cũng là những loại thông tin mà nhà nước hay cung cấp. Nhờ những thông tin loại này, các giao dịch thị trường diễn ra dễ dàng hơn, hiệu quả hơn.
Sự thiếu hụt thông tin trên thị trường còn có thể khắc phục bằng cách nhà nước đề ra những quy chế về cung cấp thông tin cho những thị trường cụ thể nhất định. Không có những quy định cưỡng bức này, những nhà sản xuất tư nhân có thể không chịu bỏ ra những khoản chi phí lớn để hoàn thành nghĩa vụ cung cấp thông tin của mình. Việc nhà nước buộc mọi nhà sản xuất phải in nhãn, mác hàng hóa với những thông tin nhất định là một trong những quy đinh như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà khi mua dược phẩm, người tiêu dùng thường nhận được những bản chỉ dẫn khá chi tiết về cách thức sử dụng sản phẩm. Khi tham gia vào việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, công ty phải công bố các thông tin cơ bản về tình hình kinh doanh và trạng thái tài chính của doanh nghiệp. Những ứng xử trong việc cung cấp thông tin như thếđều liên quan đến những quy định của nhà nước.
* Phân phối lại thu nhập: Sự chênh lệch thu nhập quá mức giữa các tầng lớp dân cư tạo ra áp lực đòi hỏi nhà nước phải thực hiện sự phân phối lại thu nhập theo hướng lấy một phần thu nhập của người giàu chuyển saing cho người nghèo. Thuế thu nhập lũy tiến là một công cụ phân phối lại quan trọng được hầu hết các nước áp dụng. Trong hệ thống thuế này, những người có thu nhập thấp dưới một một ngưỡng nào đó không bịđánh thuế; còn những người có thu nhập cao hơn sẽ bịđánh thuế với mức thuế suất biên tăng dần theo đà tăng cảu thu nhập. Với thuế lũy tiến, thu nhập càng cao thì tỷ lệ thuế phải nộp so với thu nhập càng cao.
Ngoài thuế lũy tiến, nhà nước cũng thường áp dụng hệ thống trợ cấp để hỗ trợ cho những người thu nhập thấp (những người nghèo, đông con, ốm đau bệnh tật, già cả song không có nơi nương tựa…). Những chương trình chi tiêu công cộng nhưđầu tư vào hệ thống trường học công, bệnh viện công… cũng tạo cơ hội cho người nghèo có thể tiếp cận được những dịch vụ cơ bản đó, mặc dù họ không có tiền để thanh toán cho các dịch vụ này trên thị trường tư nhân.
Khó khăn đối với chính phủ khi triển khai các chương trình hay chính sách phân phối lại là: nếu lạm dụng, sự phân phối lại sẽ tạo ra những khuyến khích phi hiệu quả. Khi những người giàu bịđánh thuế quá cao, họ sẽ không có động lực đểđưa các nguồn lực riêng của mình, kể cả kỹ năng quản lý của họ, vào vòng quay chung cua nền kinh tế,
* Ổn định hóa kinh tế vĩ mô: là một chức năng kinh tế quan trọng của nhà nước. Khi sự mất ổn định của nền kinh tế bắt nguồn từ cách thức vận động theo chu kỳ của nó, nhiệm vụ của nhà nước là tìm cách làm phẳng hơn chu kỳ của nền kinh tế, làm cho biên độ của các dao động lên xuống về mặt sản lượng thu hẹp lại. Nói cách khác, nhà nước cần can thiệp sao cho sản lượng thực tế của nền kinh tế theo sát được mức sản lượng tiềm năng, xét về ngắn hạn, và mức tiềm năng này sẽ tăng lên với tốc độ cao, xét về dài hạn. Cơ sở lý thuyết cho việc phân tích các chính sách ổn định hóa kinh tế vĩ mô của nhà nước sẽđược nghiên cứu ở môn kinh tế học vĩ mô. Ởđây, chúng ta chỉđề cập đến một vài điểm một cách sơ lược.
Khi nền kinh tế suy thoái, tổng sản lượng thực tế thấp, thất nghiệp ở mức cao, nhiều tiềm năng kinh tế không được lôi cuốn vào vòng quay kinh tế do tổng nhu cầu chi tiêu xã hội thấp. Mục tiêu ưu tiên về mặt vĩ mô lúc này của nhà nước thường là: kích thích kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. Để làm được điều đó, nhà nước thường tìm cách gia tăng tổng cầu bằng việc áp dụng hoặc chính sách tài khóa mở rộng (tăng các khoản chi tiêu của chính phủ hoặc giảm thuế, hoặc kết hợp cả hai), hoặc chính sách tiền tệ mở rộng (mở rộng cung tiền, hạ thấp lãi suất để kích thích các hoạt động đầu tư nói riêng và kích thích tổng cầu nói chung) hoặc áp dụng một hỗn hợp thích hợp hai loại chính sách này.
Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh (trong kinh tế học, người ta gọi là nền kinh tế “quá nóng”), lạm phát bùng nổ thì việc kiềm chế lạm phát, duy trì sự gia tăng cân đối trong các bộ phận khác nhau của tổng cầu trở nên quan trọng và thường trở thành mục tiêu ưu tiên. Chẳng hạn, để hạ thấp tỷ lệ lạm phát, cách thức phổ biến là nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, theo đó sự gia tăng của mức cung tiền được kiểm soát chặt chẽ. Khi mức cung tiền giảm thì lãi suất có điều kiện tăng lên, đầu tư trở nên đắt đỏ hơn. Nhờđó, các hoạt động chi tiêu đầu tư như xây dựng nhà máy, mua sắm máy móc, thiết bị, tăng dự trữ hàng hóa… bị kiềm chế. Đây là cách thức chủ yếu để nhà nước tác động vào tổng nhu cầu chi tiêu của xã hội, khiến cho nó giảm xuống hay tăng trưởng chậm lại. Kết cục có thể chờđợi là: tỷ lệ lạm phát giảm, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại song an toàn hơn.
Không phải trong mọi trường hợp nhà nước đều có khả năng sữa chữa thành công các thất bại thị trường. Để sữa chữa được các thất bại thị trường, nhà nước cũng cần nắm bắt được thông tin đầy đủ, huy động được những nguồn lực cần thiết và có đủ năng lực để hoạch định và triển khai có hiệu quả các chính sách và chương trình công cộng. Khi thiếu những điều đó, việc sữa chữa các thất bại thị trường như chúng ta vừa đề cập chỉ tồn tại như một khả năng.
EmoticonEmoticon