Đặc điểm kinh tế – xã hội của Tp. Đà Nẵng



Đối với thành phố Đà Nẵng, sau khi chia tách từ thành phố Quảng Nam – Đà Nẵng và chính thức trở thành thành phố trực thuộc Trung ương ngày 1-1-1997, tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không chỉ do xuất phát điểm của Thành phố còn thấp so với các thành phố trực thuộc Trung ương khác, phải tăng trưởng nhanh để sớm trở thành một đô thị hiện đại của khu vực miền Trung – Tây Nguyên mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế – xã hội như phát triển kết cấu hạ tầng đi trước một bước, tạo việc làm mới và giảm thất nghiệp, phát triển y tế, giáo dục, thực hiện các chính sách an sinh xã hội…


Về quy mô, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của thành phố năm 2009 theo giá so sánh là 2.589,8 tỷ đồng, đến năm 2009 đã tăng lên 9.236 tỷ đồng, tăng 3,5 lần, bình quân đạt 11,1%/năm (bình quân cả nước là 7,2%/năm). Do vậy, những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của Đà Nẵng trong giai đoạn 2009-2011 là rất ấn tượng và đáng tự hào.


Tăng trưởng của nền kinh tế thành phố trong giai đoạn 2009 -2011 thể hiện rõ nét qua việc tăng trưởng của cả ba nhóm ngành: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp hầu như liên tục đạt 2 chữ số; quy mô giá trị sản xuất công nghiệp năm 2009 gấp 5,77 lần năm 2009, bình quân tăng 15,72%/năm. Tăng trưởng của ngành dịch vụ khá cao, đạt 10,3%/năm. Riêng các năm 2010, 2011, tăng trưởng GDP của ngành dịch vụ rất cao, đạt 2 con số và cao hơn nhiều so với tăng trưởng GDP của thành phố. Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng bình quân 3,48%/năm.


1. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực


Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GDP, giá so sánh 1994) giữ được đà tăng trưởng (ước tăng 13%) song vẫn thấp so với kế hoạch đề ra (13,5 – 14,5%). Giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 94) năm 2011 ước đạt 14.855 tỷ động, đạt 100% kế hoạch, tăng 14% so với năm 2010; trong đó công nghiệp trung ương tăng 9,9%, công nghiệp địa phương tăng 17,2%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,1%. Một số sản phẩm tăng trưởng khá về sản lượng so với năm 2010 như: thép xây dựng (73,3%). Gạch ceramic (26,5%), quần áo may sẵn (18,9%), bia các l;oại (17,5%), cao su thành phẩm (16,4%), động cơ siêu nhỏ (15,2%), đồ chơi trẻ em (14,1%), xi măng (13,6%)…


Giá trị sản xuất thủy sản – nông – lâm ước đạt 639 tỷ đồng, đạt 100,3% kế hoạch, tăng 4,5% so với năm 2010, trong đó: thủy sản tăng 7,9%, nông nghiệp giảm 3% và lâm nghiệp tăng 10,7%.


Sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 35.620 tấn, đạt 101,5%, giảm 1,3% so với năm 2010, trong đó: hải sản ước đạt 34.500 tấn, đạt 101,5% kế hoạch, giảm 1,4% song do tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao nên vẫn đảm bảo được tốc độ tăng giá trị sản xuất.


Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của thành phố thông qua việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, tiếp cận đất đai; ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư; triển khai các chưong trình hỗ trợ doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh… đã huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích người dân và các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.


Đến cuối năm 2009, thành phố có trên 11.800 doanh nghiệp dân doanh, tổng vốn đăng ký đạt 28,5 ngàn tỷ đồng và 164 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 2,62 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện ước đạt 1,29 tỷ USD, chiếm 49,2% tổng vốn đầu tư với 96 dự án đã đi vào hoạt động, từ đó tạo nên những giá trị gia tăng mới cho nền kinh tế thành phố phát triển lâu dài và bền vững.


Việc chuyển đổi cơ cấu lao động là một bước tiến bộ trong phân bổ nguồn lực lao động xã hội nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết quả của việc chuyển dịch hoạt động nông nghiệp sang các ngành khác đã làm cho lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn 9,63% trong tổng số lao động có việc làm trong năm 2008 so với mức 33% năm 2009, lao động trong nhóm ngành công nghiệp tăng từ 29,8% lên 33,52%, lao động trong nhóm ngành dịch vụ tăng từ 37,2% lên 57,01% năm 2008.


2. Đầu tư phát triển xã hội tăng nhanh


Nếu năm 2009, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội là 1.088,26 tỷ, thì đến năm 2011, tổng vốn đầu tư phát triển xã hội là 15.300 tỷ, gấp hơn 14 lần, bình quân tăng 24,64%/năm trong giai đoạn 2009-2011, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP thực tế của thành phố trong cùng giai đoạn là 18,64%/năm; đồng thời tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cũng tăng mạnh qua các năm, từ mức 33,91% năm 2009 lên 61,29% năm 2011. Do vậy, vốn đầu tư xã hội đã trở thành yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng của nền kinh tế trong nhiều năm. Điều này chứng tỏ tiềm lực kinh tế của thành phố đã tăng lên, đồng thời đây là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thành phố.


Cơ cấu đầu tư cũng thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng dịch vụ, công nghiệp và nông, lâm, thuỷ sản. Tính đến cuối năm 2011, vốn đầu tư cho ngành nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng 2%; vốn đầu tư cho ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng đáng kể, đạt 36,08%; vốn đầu tư cho ngành dịch vụ tăng mạnh nhất và cũng chiếm tỷ trọng cao nhất là 61,91%. Đầu tư tập trung vào các dự án trọng điểm nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng; bổ sung thiết bị và hiện đại hóa một số ngành công nghiệp; phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao; đào tạo nguồn nhân lực…


Xét về cơ cấu nguồn vốn thì nguồn vốn ngân sách Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể  là 30,7% năm 2011, tăng bình quân 29,4%/năm; nguồn vốn dân cư và doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng bình quân 22,7%/năm, có tỷ trọng cao nhất là 44,8% năm 2011; nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng khá, bình quân là 20,4%/năm, chiếm tỷ trọng 24,4% năm 2011.


Trong giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thành phố đã huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển. Chủ trương khai thác quỹ đất, tạo vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được thực hiện có hiệu quả, tạo ra nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển .


Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, thu NSNN trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến nay tăng nhanh, kết quả thu ngân sách được thể hiện qua các biểu 2.1, 2.2.


Năm 2009 thu NSNN thực hiện 13.430 tỷ bằng 208,8% dự toán trung ương giao. Năm 2010 thực hiện 16.580 tỷ bằng 264,2% dự toán TW giao và bằng 123,45% so với năm 2009. Đến năm 2011 thực hiện 19.826 tỷ bằng 208,7% dự toán TW giao và bằng 119,57% so với năm 2010.


*Xét trên một số lĩnh vực thu




Theo biểu trên ta thấy:


-Thu xí nghiệp quốc doanh TW năm 2009 thực hiện 736,51 tỷ . Đến năm 2011 đạt 859,23 tỷ.


-Thu xí nghiệp quốc doanh địa phương: Năm 2009 thực hiện 102,8 tỷ, năm 2010 thực hiện 147,94 tỷ, đến năm 2011 thực hiện 138,58 tỷ. Số thu từ các xí nghiệp quốc doanh địa phương ở mức thấp, chủ yếu là số thu từ một số đơn vị kinh doanh có hiệu quả như Công ty Xây dựng Công trình GTGT5, Công ty CP Cosevco và số thu tồn đọng từ năm trước chuyển sang. Còn một số đơn vị làm ăn thua lỗ không có hoặc thu nộp ngân sách rất thấp như CN Công ty CP Vintatex Đà Nẵng, Công ty Dệt May 29/3… Năm 2011 mức thu ngân sách có giảm do ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh tế trong nước và trên thế giới.


-Thu từ xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Thực hiện năm 2009 là 509.57 tỷ, chủ yếu do sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vượt kế hoạch, giá bán sản phẩm tăng. Vinacapital giá bán căn hộ thực tế là 26.000USD/giá kế hoạch là 24.000USD. Ngoài ra còn thu tồn đọng của năm trước và thu thuế của các nhà thầu phụ. Mặt khác Vinacapital thoả thuận nộp 100% thuế doanh thu cho NSĐP chưa thực hiện miễn giảm 50% theo luật đầu tư nước ngoài. Đến năm 2011 thực hiện là 904,48 tỷ, số thu này tăng mạnh do đã thu được nợ đọng thuế doanh thu, thuế lợi tức chuyển sang và thuế giá trị gia tăng thu được phần lớn không phải khấu trừ hoặc khấu trừ ít do giá trị hàng hoá sản xuất và tiêu thụ những tháng đầu năm chủ yếu bằng nguyên vật liệu, hàng hoá tồn kho.


-Thu ngoài quốc doanh: Năm 2009 thực hiện 676.56 tỷ, ở mức hơi khiêm tốn, do giá trị sản xuất kinh doanh dịch vụ ngoài quốc doanh tăng chậm, thậm chí có ngành còn giảm mạnh như sản xuất gạch ngói ngoài quốc doanh thực hiện 0,2 tỷ/dự toán 1 tỷ giảm 0,8 tỷ. Đến năm 2011 thực hiện 1,724.37 tỷ – Số thu này đạt khá cao chủ yếu từ thu thuế môn bài và thu tồn đọng thuế doanh thu, thuế lợi tức năm 2010 chuyển sang.


-Thu cấp quyền sử dụng đất (tiền sử dụng đất): Là một khoản thu không nhỏ nếu việc quản lý và tổ chức thu tốt, đảm bảo đúng chính sách chế độ với một khung giá hợp lý. Trong thực tế khoản thu này còn gặp nhiều khó khăn mặc dù nhà nước đã có những quy định về chế độ thu nộp, quy định khung giá đất.


Năm 2009 thực hiện 2.663,54 tỷ nhưng chưa đảm bảo chỉ tiêu giao của HĐND thành phố do công tác giao đất cho cán bộ công chức ở khu vực quận Hải Châu chưa thực hiện được như dự kiến. Mặt khác, việc chấp hành thu nộp NSNN ở cấp cơ sở chưa tốt, một số xã đã giao đất nhưng số tiền thu được toạ chi cho xây dựng cơ bản của phường. Đến năm 2011 thực hiện 5.763,93 tỷ.


-Thu khác ngân sách: Năm 2009 thực hiện 61,06 tỷ; năm 2010 thực hiện 70,54 tỷ (trong đó thu khác ngân sách xã phường là 10,79 tỷ); đến năm 2011 thực hiện 184,16 tỷ (trong đó thu khác ngân sách xã 18.74 tỷ). Khoản thu này nếu loại trừ thu khác ngân sách xã phường thì chỉ đạt ở mức thấp.




Phân tích một số mục thu cho thấy:


-Thuế thu nhập doanh nghiệp: Đây là sắc thuế mới được thực hiện từ năm 2011. Là khoản thuế động viên một phần thu nhập vào NSNN; bảo đảm sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, dịch vụ có thu nhập. Năm 2009 thực hiện 7,3 tỷ đến năm 2011 ước thực hiện 9 tỷ.


-Thuế giá trị gia tăng: là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Năm 2009 thuế giá trị gia tăng thực hiện được 47,7 tỷ, đến năm 2010 thực hiện 86 tỷ và ước thực hiện 2011 được 160 tỷ, khoản thuế này tăng một phần do sản xuất phát triển và do thay đổi cơ chế chính sách thu (trước kia thuế doanh thu thuế suất bình quân 2%, từ năm 2011 thực hiện thuế giá trị gia tăng thuế suất bình quân 10%).


-Học phí, viện phí là khoản thu NSNN được thực hiện thông qua việc ghi thu, ghi chi NS hàng năm nhưng thực tế chưa phản ánh vào thu  NSNN được, do đó chưa tính toán đầy đủ chính xác kinh phí đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và y tế.


-Các khoản huy động theo quy định của nhà nước: Năm 2009 thực hiện được 2,3 tỷ, năm 2010 thực hiện được 2,5 tỷ, ước thực hiện năm 2011 đạt 1,8tỷ. Đây là khoản thu có tính chất bắt buộc nhưng kết quả thực hiện còn thấp, do đó chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu NSNN.


-Các khoản đóng góp: Khoản thu này hầu hết phát sinh ở cấp xã, mục đích huy động để xây dựng kết cấu hạ tầng tại địa phương theo chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm, xây dựng nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lụt theo đạo lý uống nước nhớ nguồn, lá lành đùm lá rách.. đóng góp vào các quỹ như quỹ an ninh quốc phòng, quỹ phòng chống thiên tai. Trong thực tế việc huy động khoản thu này đạt thấp. Năm 2009 là 1 tỷ, năm 2010 đạt 1,5 tỷ, ước thực hiện năm 2011 đạt 1,2tỷ.


-Các khoản thu phí, lệ phí khác: là khoản thu nhằm phục vụ các hoạt động ở nơi công cộng như lệ phí an ninh, lệ phí bến bãi, lệ phí chợ, lệ phí giữ xe.. khoản thu này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số thu NSNN và phát sinh ở cấp xã phường là chủ yếu, nó có ý nghĩa góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm cho người dân trong việc hưởng thụ các công trình, sự nghiệp công ích của toàn xã hội.



*Về cơ cấu nguồn thu: Cùng với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ lệ huy động cũng như số thu nộp ngân sách đều tăng. Riêng thu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh tăng cả số tuyệt đối lẫn số tương đối, các nguồn thu ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh tương đối ổn định và có chiều hướng tăng, kết quả cụ thể:



Qua kết quả thu NSNN từ năm 2009 đến năm 2011 có thể khẳng định, thành phố Đà Nẵng từ khi tái lập thành phố đã có sự tăng trưởng về kinh tế, cơ cấu thu chuyển dịch hợp lý, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch và huy động từ GDP vào ngân sách hàng năm tăng khá. Tuy nhiên tỷ lệ huy động này chưa ổn định qua các năm, chưa phát huy đầy đủ thực lực số thu nộp, còn phụ thuộc nhiều vào cơ chế, chính sách như:


Thứ nhất, là cơ chế thu nộp: Các khoản thu lệ phí giao thông từ năm 2009 trở về trước phát sinh trên địa bàn nào nộp trên địa bàn đó, từ năm 2009 trở lại đây tập trung thu nộp về TW do đó không có số thu nộp vào NSĐP.


Thứ hai, là chính sách thu thay đổi: Từ năm 2010 trở về trước thựchiện Luật thuế doanh thu, thuế lợi tức nay được thay đổi và bắt đầu áp dụng từ năm 2011 là Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.

Previous
Next Post »