Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp sản xuất


 


1.Cơ hội khi gia nhập WTO


1.1. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu


Khi gia nhập WTO, theo nguyªn t¾c tèi huệ quèc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hãa này mà kh«ng phải đàm ph¸n hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế.

Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại “như thế nào đó” đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.


Từ thập kỷ 90 cho đến nay, xuất khẩu của Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2000 đạt 16,5 tỷ USD (xuất khẩu hàng hoá đạt 14,3 tỷ USD và xuất khẩu dịch vụ đạt 2,2 tỷ USD), tăng gấp 6,87 lần so với 1990 (đạt 2,4 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 – 2000 là 21,5%. Năm 2001 xuất khẩu hàng hoá đạt 15,2 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2000. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu đạt 16,706 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001 và năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19870 triệu USD, tăng 7,4% so với kế hoạch phấn đấu cả năm (18,5 tỷ USD) và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2002.


Sau thời kỳ bị chững lại năm 1998 và những tháng đầu năm 1999, xuất khẩu của Việt Nam đã trở lại nhịp độ tăng trưởng cao. Năm 1999 tăng 23,3% và năm 2000 tăng 24%. Cho tới năm 2003 đã tăng 18,9% so với năm 2002, đưa xuất khẩu bình quân theo đầu người của Việt Nam vượt xa ngưỡng 170 USD (chỉ sự chậm phát triển về ngoại thương). Bên cạnh đó là sự cải thiện quan trọng cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng tích cực tăng dần tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (tỷ trọng phát triển từ 38,3% năm 2002 lên 43% năm 2003) và giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nguyờn li?u, khoáng sản (từ 31,2% năm 2002 và còn 27,6% năm 2003) và giảm nhẹ tỷ trọng nhóm hàng nông lâm thuỷ sản (từ 30,5% năm 2002 giảm còn 29,4% năm 2003). Ngoài ra, Việt Nam còn chú trọng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến, giảm xuất khẩu thô, hàng nông lâm – thuỷ sản đầu thập kỷ 90 từng chiếm tỷ trọng trên dưới 50% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam (năm 1990 chiếm tỷ trọng 48%, năm 1991 chiếm 52%, 1992 chiếm 49,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) đã từng bước giảm đáng kể. Thị trường xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá. Từ chỗ chỉ xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Hàng Việt Nam đã chiếm được thị phần nhất định ở những thị trường lớn thế giới như EU, Mỹ, Nhật Bản…


Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chiến lược phát triển xuất khẩu lâu dài thời kỳ 2001 – 2010 cho các đơn vị kinh tế và định hướng xuất khẩu năm 2004. Năm 2004, dự kiến xuất khẩu hàng hoá đạt 22,45 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2003, trong đó các doanh nghiệp 100% vốn trong nước dự kiến 10,85 tỷ USD, tăng 9,5% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến 11,6 tỷ USD, tăng 16,4%. Tăng cường xuất khẩu vào các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhât Bản, Ôxtrâylia, các nước ASEAN, các tiểu vương quốc ả rập thống nhất, Nam Phi, Mêxico, Canada, Hàn Quốc, Nga




 


1.2. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế


Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế.


1.3. Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO


Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đã trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.


2. Thách thức của việc gia nhập WTO


Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là:


2.1. Sức ép cạnh tranh


Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sù b¶o trî của Nhà nước.          Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến.


2.2 Thách thức về nguồn nhân lực


Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu.

Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế…


Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020


3.Sự tác động đến thương mại đầu vào


a.ThuËn lîi


Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng  và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.


Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu ®Çu vµo.


Giá thành các yếu tố đầu vào trở nên rẻ hơn,gia nhập WTO các doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng nhiều về giá cả cũng như chất lượng các yếu tố đầu vào cho sản xuất như nguyên, nhiên vật liệu cho các quá trình sản xuất ra sản phẩm. Càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận được với các nguồn nguyên nhiên vật liệu, các dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho đầu vào sản xuất.


Sự xuất hiện thêm nhiều nhà cung ứng các yếu tố đầu vào từ các quốc gia trong khối wto và hơn nữa nước ta là một địa chỉ đầu tư vốn có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ làm cho các yếu tố này trở nên rẻ và nhiều hơn và hơn nữa sức ép cạnh tranh cũng là một trong những nhân tố quan trọng giúp giá cả hạ.


Các mối quan hệ kinh tế hợp tác không chỉ đơn thuần mang tính chất ngắn hạn (mua đứt-bán đoạn) mà dần sẽ trở thành quan hệ hợp tác truyền thống đôi bên cùng có lợi của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp được tự do trong lựa chọn bạn hàng và nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho mình do vậy họ sẽ quan tâm rất nhiều đến giá cả và chất lượng từ phía các nhà cung cấp.


Điều này cũng dẫn tới các nhà cung cấp sẽ chủ động tìm đến các doanh nghiệp sản xuất và trở nên linh hoạt hơn trong chiến lược bán và cung cấp các sản phẩm của mình. Các nhà cung cấp sẽ chủ động tiếp cận và nắm bắt nhu cầu của các doanh nghiệp ma mình nhắm tới. Điều này giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian mua sắm các yếu tố đầu vào cũng như những khoản chi phí không đáng có.


b.Khó khăn:


Công nghiệp phụ trợ phát triển chậm làm gia tăng sự phụ thuộc vào thị trường thế giới dẫn tới đẩy chi phí trung gian lên cao nhất là khi giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh.


Việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế


4.Sự tác động đến thương mại đầu ra


a.Thuận lợi:


Các doanh nghiệp có cơ hội được tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường tiêu thụ rộng lớn của khối wto mà mức độ khai thác tùy thuộc vào tiềm lực và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như khả năng bắt kịp với những thay đổi của môi trường kinh doanh quốc tế.


Sự thành công chỉ thuộc về những doanh nghiệp có tầm nhìn, hướng đi và mức độ chuyên môn hóa đạt đẳng cấp quốc tế.


Việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào dẫn đến giảm giá thành sản phẩm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp sẽ chiếm ưu thế trong cạnh tranh về giá so với các sản phẩm cùng loại. Đây cũng là thuận lợi cho các doanh nghiệp vốn có chất lượng và giá cả ổn định.


b. Khó khăn:


b.1.Sức ép cạnh tranh lớn:


Diễn ra sự phá sản và giải thể của hàng loạt doanh nghiệp quen làm ăn và hoạt động theo tư duy cũ, không nhạy bén cũng như không bắt kịp với những thay đổi của thời cuộc.


Hoạt động tiêu thụ về một mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn bởi có được một thị trường rộng lớn hơn trước song sự xuất hiện của rất nhiều các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia và miền lãnh thổ với tiềm lực tài chính và kinh nghiệm thương trường cùng với đội ngũ nhân lực đạt trình độ quốc tế chắc chắn sẽ gây khó khăn cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước.


Viêc bị mất thị phần sản phẩm vào tay các đối thủ cạnh tranh cũng như việc phân chia lại thị phần của một sản phẩm hoặc một ngành hàng nào đó sẽ diễn ra. Kinh tế thị trường với những qui luật vốn có của nó sẽ đưa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau gay gắt, để đứng vững và tồn tại được trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nỗ lực với các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn mang tính lâu dài, bền vững và phù hợp quốc tế và hội nhập toàn cầu. Hoạt động thương mại đầu ra xét về một phương diện nào đó chỉ là hoạt động tiêu thụ sản phẩm (hay là khâu bán hàng) nhưng nó có tính chất quyết định đến sự tồn tại đến sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất.


Trong điều kiện cạnh tranh sẽ diễn ra xu hướng sáp nhập, hợp nhất các công ty và các doanh nghiệp nhỏ thành các công ty và tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Việc để rơi thị phần vào tay các tập đoàn kinh tế và các đối thủ cạnh tranh đến từ các quốc gia khác trong thời gian đầu của thời kỳ hội nhập là điều không thể tránh khỏi. Các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết, khắc phục những yếu kém thiếu sót, tổ chức và tổ chức lại các chiến lược tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng, makerting…


Ngoài ra sẽ xảy ra sự cạnh tranh về nguồn nhân lực trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất. Đây cũng sẽ là một khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước bởi vấn đề nhân sự của các doanh nghiệp trong nước vẫn làm chưa tốt.


Tóm lại sự cạnh tranh sẽ diễn ra trên toàn diện các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là điều tất yếu.


b.2.Sẽ hoàn toàn không có sự bảo hộ của nhà nước


Trong điều kiện hội nhập wto, các doanh nghiệp nhận được rất ít và có khi gần như hoàn toàn không có sự bảo hộ hay các chính sách trợ giá cho các sản phẩm hoặc ngành hàng từ phía chính phủ.


Các doanh nghiệp phải chủ động tìm thị trường cho sản phẩm, hoàn toàn độc lập và tự chịu trách nhiệm trong mọi quyết định sản xuất kinh doanh của mình


 

Previous
Next Post »