Giải pháp nâng cao năng lực của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình gia nhập WTO


 


I. Đối với doanh nghiệp


1.Giải pháp để vượt qua thách thức


Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây.


Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tìm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến.


Luật chơi cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất – nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật chơi đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá trình thiết lập các luật chơi mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng.


Những thỏa thuận về việc gia nhập WTO trong cuộc đàm phán song phương với Mỹ và đàm phán đa phương tới đây sẽ được phổ biến rộng rãi, cần được các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ để hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn hậu WTO. Ngoài những điểm cơ bản như trên còn có những thỏa thuận cụ thể về ngành, lĩnh vực, sản phẩm; về tỷ lệ nắm giữ cổ phần; về lộ trình với những thời hạn cụ thể…


Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị – công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông…


Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng sản xuất trực tiếp. Khắc phục tình trạng chỉ chú tâm đẩy mạnh sản xuất đôi khi những sản phẩm mà thị trường không cần hoặc cần nhưng với số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị hiếu phù hợp hơn.


Thứ tư, đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp (mới được một phần tư, còn ba phần tư chưa qua đào tạo); cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp.


2.Doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh

Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì vậy các doanh nghiệp cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xấut trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.


Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát triển. Tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tăng cường triển khai các hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh nhằm giảm rủi ro, giảm tỷ lệ sản phẩm kém chất lượng, tiết kiệm chi phí; khi thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, nâng cao hiệu quả SXKD. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh mối liên kết giữa người sản xuất-cung cấp nguyên, vật liệu đầu vào với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu khoa học, nhằm tổ chức hiệu quả chuỗi cung ứng từ khâu sản xuất nguyên, vật liệu đầu vào đến khâu tổ chức sản xuất hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.


II. Đối với chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan

  1. 1.                 Các giải pháp cho chiến lược phát triển xuất khẩu

Để thực hiện thắng lợi Chiến lược xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2007-2010, Nhà nước cần có chính sách cởi mở hơn với các nhà đầu tư nước ngoài để tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào những lõnh vực mà doanh nghiệp trong nước hạn chế về năng lực thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng liên quan đến xuất khẩu theo hướng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hướng tới các dịch vụ tín dụng phục vụ người mua, thay vì chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nước; khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho vay thương mại sang góp vốn tài trợ, hoặc nhiều ngân hàng đồng thời tài trợ cho dự án sản xấut vì mục đích xuất khẩu.


Theo đó, ngân hàng sẽ chuyển vị thế từ người cho vay sang vị thế đối tác hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp; nghiên cứu xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào nước sở tại; đồng thời có các chính sách phù hợp để khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam tiêu thụ sản phẩm qua mạng lưới thị trường sẵn có của các công ty này; chủ động nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ ASEAN, WTO để có thể vận dụng hiệu quả ngay khi xảy ra tranh chấp liên quan đến quyền lợi của quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam; thực hiện khẩn trương và đồng bộ các chính sách và biện pháp, nhằm đa dạng hoá các hình thức đào tạo nghề theo chủ trương xã hội hoá giáo dục đào tạo. Đơn giản hoá những quy định về thủ tục và điều kiện tham gia kinh doanh dịch vụ giáo dục, đào tạo để đẩy nhanh một bước chất lượng của công tác đào tạo nghề và kiến thức kinh doanh vốn đang còn nhiều hạn chế trong các doanh nghiệp Việt Nam; đẩy nhanh quá trình ra quyết định chính sách, thông qua cơ chế tăng cường mối liên hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, cũng như giữa các bộ, ngành với nhau.


Nhà nước và các bộ, ngành liên quan sớm thay đổi cơ bản các chương trình xúc tiến xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình xúc tiến chuyên ngành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), tập trung vào một số thị trường mới (hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển); triển khai thực hiện một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh quốc gia, sản phẩm của Việt Nam trên các phương tiện thông tin, truyền thông ở nước ngoài, đặc biệt trên các kênh truyền hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics…); nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị trường. Nhà nước cần ưu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng thương mại, đặc biệt tại các cửa khẩu cũng như đường bộ, đường sắt dẫn tới biên giới, cảng biển, cảng sông và các phương tiện liên quan. Trong đó, cần chú ý tới một số cửa khẩu lớn giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia, từ đó nối với Thái Lan, Myanma…, để khai thác tốt hơn những thoả thuận về thương mại trong khu vực Tiểu vùng sông MêKông. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường áp dụng quy trình quản lý chất lượng công việc và chất lượng cung cấp dịch vụ công, nhằm thường xuyên giám sát, quản lý hiệu quả chất lượng các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công (ISO 9002, quy chế cơ quan…). Bên cạnh đó, các hiệp hội ngành hàng cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động theo hướng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với nhau nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện sở hữu để phản ánh nhu cầu, yêu cầu của doanh nghiệp tới Chính phủ; cần tổ chức thu thập, phân tích xử lý thông tin về thị trường, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu, về đối thủ cạnh tranh để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu tiếp cận thị trường, tổ chức sản xuất và xuất khẩu.

2. Nhãm gi¶i ph¸p t¨ng xuÊt khÈu vµ gi¶m nhËp khÈu

Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và Hiệp hội ngành nghề đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cụ thể với từng mặt hàng để hạn chế nhập khẩu năm 2008.


Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đưa ra 7 nhóm giải pháp trung và dài hạn để hạn chế nhập siêu, cụ thể:


Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu như đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, xe đạp, phụ tùng, túi xách,…


Phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, ngành công nghiệpphụ trợ


Đẩy mạnh sản xuất trong nước, cung cấp các loại nguyên liệu, linh phụ kiện, phụ tùng, chi tiết cho sản xuất xuất khẩu và tiêu dùng.


Nghiên cứu xây dựng các biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với sản xuấtcông nghiệp và thương mại phù hợp với các quy định của WTO và các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam ký kết. Hoàn thiện và ban hành mới các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường.


Đẩy mạnh hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế,trong đó quan tâm việc chủ động đàm phán, ký kết các hiệp định song phương, đa phương thiết lập các khu mậu dịch tự do theo hướng tạo thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.


Phối hợp với các đối tác thương mại mà Việt Nam nhập siêu để tìm giải pháp giảm nhập siêu vào Việt Nam và tăng xuất khẩu từ Việt Nam.


Điều tiết tỷ giá hối đoáisao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý là cần thiết.


Chống lãng phí trong sản xuất và đầu tư xây dựng cơ bản, trong tiêudùngvà sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong nước. Phát triển các vùng nguyên liệu như vùng trồng cây lương thực, cây có dầu, cây nguyên liệu giấy, chăn nuôi bò sữa, nuôi trồng thủy sản,… bảo đảm cung cấp ngày càng nhiều nguyên liệu trong nước cho phát triển công nghiệp, góp phần tự chủ, giảm nhập siêu.


3.Các doanh nghiệp thương mại, công nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động


Bộ Công Thương yêu cầu Chủ tịch các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có trách nhiệm quản lý giá thành, giá cả các hàng hóa do đơn vị sản xuất; đồng thời có kế hoạch kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đại lý chống găm hàng, đầu cơ, tăng giá bán.


Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất; không tăng giá điện từ nay đến hết tháng 6/2008 theo chỉ đạo của Chính phủ.


Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hóa chất đẩy mạnh hoạt động sản xuất phân bón, nhất là phân đạm Ure bảo đảm đạt sản lượng 915 ngàn tấn, xem xét hỗ trợ nông dân dưới hình thức cung ứng phân bón trước và thu tiền cuối vụ.


Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam ưu tiên cung ứng đủ than cho các hộ sử dụng trong nước gồm điện, xi măng, phân bón, giấy,….; từ nay đến hết tháng 6/2008 không tăng giá bán than.


Tổng Công ty Thép Việt Nam và Hiệp hội Thép Việt Nam chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất không bán tập trung số lượng thép lớn cho các đại lý để tránh hiện tượng găm hàng, nâng giá bán, triển khai việc cung ứng thép trực tiếp cho các dự án đầu tư lớn, mở rộng kênh phân phối tới tận tay người tiêu dùng.


Tổng công ty Xăng dầu cần theo dõi sát diễn biến thị trường xăng dầu thế giới, chủ động cân đối cung – cầu, nhập khẩu xăng, dầu ở thời điểm và mức giá hợp lý. Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát các cửa hàng bán lẻ trong việc chấp hành quy định về giá bán xăng dầu, trang thiết bị đong đếm,…


Tập đoàn Dệt may, Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội Da giày chỉ đạo các đơn vị rà soát tiết giảm các chi phí sản xuất như xăng dầu, điện,… chủ động nguồn nguyên liệu, tăng cường các hoạt động thương mại, mở rộng thị trường mới có sử dụng ngoại tệ chuyển đổi khác ngoài USD.


Các doanh nghiệp thuộc ngành cơ khí, Tổng công ty Tàu thủy, Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp, Tổng công ty Máy và thiết bị công nghiệp, Tổng công ty Thiết bị kỹ thuật điện,… đẩy mạnh sản xuất linh phụ kiện, phụ tùng cho các hoạt động lắp ráp như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thiết bị đồng bộ cho công nghiệp chế biến, hỗ trợ bà con nông dân mua máy móc trả chậm,..

                                            


 

Previous
Next Post »