Phân tích đặc điểm của thị trường nông nghiệp




Do đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng hàng nông sản, thị trường nông nghiệp là thị trường đa cấp. Vấn đề trọng tâm của việc phân tích thị trường nông nghiệp là phân tích trạng thái cân bằng ở mỗi cấp thị trường.



Mỗi loại nông sản đáp ứng đòi hỏi của thị trường về tất cả các mặt: Thời gian, không gian, chất lượng, giá cả sản phẩm… Do vậy, các chủ thể kinh tế tham gia trên dây chuyền marketing cần bỏ ra những chi phí nhất định để đáp ứng những đòi hỏi nói trên của thị trường. Những chi phí này được phản ánh vào giá cả. Khi thị trường chấp nhận giá, gồm giá nông sản thô cộng với những chi phí marketing thì chênh lệch giữa giá đó với giá ở cấp thị trường trước đó được gọi là độ cận biên thị trường.


Với giả định không có tình trạng độc quyền trên thị trường và việc tổ chức hệ thống marketing hợp lý, ta xem xét độ cận biên thị trường trên hai khía cạnh:


–   Với một độ cận biên nhất định (có thể thu thập được từ số liệu thống kê hoặc qua điều tra) ta có thể phân tích được hậu quả của việc thay đổi của cung hoặc cầu trên thị trường nông sản.


–    Nếu nhờ một cải tiến nào đó làm tăng hiệu quả của dây chuyền marketing thì cả người bán và người mua đều được lợi. Mức độ lợi ích của mỗi bên tuỳ thuộc độ dốc của đường cung và cầu (tức là hàm cung và cầu cụ thể) về loại nông sản đang được nghiên cứu.


Trong hoạt động thực tiễn với một loại nông sản nhất định thường có sự chênh lệch giá ở các thị trường địa phương khác nhau. Nếu chênh lệch đó không đủ bù đắp chi phí vận chuyển, bảo quản … giữa các thị trường địa phương thì sẽ không có hiện tượng di chuyển sản phẩm từ thị trường này sang thị trường khác. Ngược lại, nếu chênh lệch giá giữa hai thị trường địa phương đủ bù đắp chi phí marketing và có lãi đủ sức thuyết phục thương nhân hoạt động, sẽ có sự phân bổ lại lượng cung giữa các thị trường địa phương, do đó tạo lập sự cân bằng mới ở mỗi thị trường. Dựa vào việc phân tích độ cận biên thị trường ta có thể hiểu được các giá cân bằng không giống nhau ở các thị trường địa phương khác nhau là một thực tế khách quan.


1.   Độ cận biên thị trường và giá cả nông sản.


Chúng ta tiếp cận ở phía những người tiêu dùng nông sản từ hai khía cạnh của quá trình. Thứnhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế, người dân tiêu dùng các lượng lương thực thực phẩm chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân thường sử dụng nông sản thô nhiều hơn, còn ở thành phố thì người dân tiêu dùng các sản phẩm đã qua chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người tiêu dùng khác nhau có những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượng và dịch vụ nông sản hàng hoá. Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng với sự phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của nông sản hàng hoá. Kết quả là trong cơ cấu giá mua nông sản thực phẩm của người tiêu dùng, phần chi trả cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, còn phần trả cho sản phẩm thô thì giảm đi. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng lên. Độ cận biên thị trường giữa giá lẻ và giá nông trại là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho người tiêu dùng và giá mà người nông dân nhận được khi bán nông sản. Tuỳ những mục đích khác nhau, người ta có thể nghiên cứu độ cận biên thị trường ở hai cấp thị trường bất kỳ, nên có thể chú trọng độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ với giá bán buôn, hoặc giữa giá bán buôn với giá nông trại … Như vậy sẽ không làm xuyên tạc bản chất của vấn đề nghiên cứu khi ta chỉ giới hạn việc phân tích độ cận biên ở chỗ khảo sát hai cấp trao đổi quyền sở hữu.


Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu cầu đối với nông sản thô và nhu cầu đối với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với nông sản thô gọi là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp cả nông sản thô và dịch vụ. Đường cầu này được tạo ra bằng cách đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về nhu cầu cách dịch vụ. Vì nhu cầu đối với dịch vụ về mỗi đơn vị lượng hàng tiêu dùng không đổi với tất cả các giá lẻ nên hai đường song song (hình 9.1).




Đường cong cầu phái sinh hoàn toàn co dãn với giá, bằng hiệu số không đổi giữa đường cầu ban đầu và đường cầu phái sinh. Giá này phản ánh giá các dịch vụ và do đó bằng chênh lệch giá giữa giá lẻ và giá ở nông trại.


Có thể coi lượng cung của nông trại đối với nông sản thô là đường cung ban đầu về nông sản đó. Còn có hàm cung đối với các dịch vụ mà người tiêu dùng cần mua. Đường cung phái sinh này cũng hoàn toàn co dãn đối với giá các dịch vụ, vì vậy nó song song với đường cung ban đầu, bằng hiệu số giữa giá Pr và Pf ở trạng thái cân bằng.


Minh hoạ ở hình 9.1 cho thấy trạng thái cân bằng đồng thời ở hai cấp thị trường bán lẻ và nông trại, lượng sản phẩn cân bằng là Q*. ở cấp thị trường nông trại, đường cung ban đầu cắt đường cầu phái sinh với lượng hàng Q* và giá cân bằng Pf. ở cấp thị trường bán lẻ, đường cung phái sinh cắt đường cầu ban đầu với lượng Q* nhưng giá cân bằng cao hơn, ở Pr, phản ánh sự cân bằng cung cầu đối với các dịch vụ thị trường đã phối hợp với nông sản thô.


Như vậy, khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống thị trường tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm v..v… thì ở đây độ cận biên thị trường phản ánh sự chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí cho sự “chuẩn bị” này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường.


Đến đây, ta xét hai trường hợp cụ thể:


a.   Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi.


Ta có thể giả định được rằng trong thời hạn ngắn, độ cận biên thị trường không thay đổi. Vì nhu cầu đối với dịch vụ có hệ số co dãn hầu như toàn toàn đối với giá ở bất kể điểm nào, như giả định ở hình 9.1 nên sự dịch chuyển của đường cong cung và cầu ban đầu sẽ làm cho giá cân bằng thay đổi những lượng bằng nhau ở tất cả mọi cấp thị trường. Giả sử đường cầu ban đầu dịch chuyển lên nhưng không kéo theo sự chuyển dịch nhu cầu đối với các dịch vụ, thì nhu cầu phái sinh đối với các sản phẩm thô phải dịch chuyển đi lên giống như nhu cầu ban đầu. Bởi vì cả hai đường cầu và cung có cùng độ dốc, nên mức tăng giá lẻ từ Pr lên P’r phải bằng mức tăng giá ở nông trại từ Pf lên P’f. Như vậy, nếu độ cận biên thị trường coi như cố định trong thời gian ngắn, chúng ta có thể chỉ ra hậu quả của sự chuyển dịch đường cong cung và cầu đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng, do đó đánh giá được những biến động về lượng hàng, giá cả, doanh thu và chi phí (hình 9.2).



b.   Trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi.


Trong thời hạn dài, có nhiều nguyên nhân làm thay đổi độ cận biên thị trường và sự thay đổi đó có ảnh hưởng đến cả người tiêu dùng và người sản xuất. Như trên hình 9.1 đã chỉ ra, độ cận biên thị trường giữa giá bản lẻ Pr và giá nông trại Pf gồm những chi phí vận chuyển, chế biến, dự trữ … Nếu gạt bỏ những nguyên nhân làm ăn kém hiệu quả và lợi nhuận quá cao của các chủ thể tham gia dây chuyền marketing thì những chi phí này là cần thiết để thực hiện việc cung cấp hàng hoá kịp thời, đúng địa điểm và chất lượng phù hợp cho người tiêu dùng. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng bất kỳ một sự cải tiến nào về vận chuyển và tổ chức hệ thống thị trường làm cho chi phí giảm đi đều có lợi cho cả người tiêu dùng và người sản xuất (hình 9.3).



Hình 9.3. Hiệu quả của sự giảm bớt được chi phí trên dây chuyền thị trường


Do chi phí lớn về dịch vụ markrting trên dây chuyền theo giá Pm, đường cong cung phái sinh với giá lẻ được hình thành bằng cách cộng thêm đoạn thẳng đứng Pm và đường cong cung ban đầu ở cấp nông trại. Giao điểm đường cong cung phái sinh với đường cong cầu ban đầu ở cấp bán lẻ cho giá cân bằng thị trường Pr. Nghĩa là khi giá cân bằng, giá ở nông trại sẽ là Pf = Pr


– Pm. Nếu hoàn thiện phương tiện vận chuyển và đường giao thông làm cho chi phí trên dây chuyền thị trường giảm xuống còn P’m, đường cong cung


phái sinh dịch chuyển xuống và có thể cắt đường cong cầu ban đầu và tạo ra giá bán lẻ cân bằng P’r. Như vậy giá lẻ hạ đi và thị trường mở rộng ra với lượng cầu tăng lên từ a lên b. Khi đó giá ở nông trại cũng cần thiết tăng từ Pf lên P’f để thúc đẩy tăng sản lượng từ a lên b. Nói cách khác, lợi ích của việc giảm chi phí trên dây chuyền thị trường được phân chia cho người sản xuất và người tiêu dùng theo tỷ lệ tuỳ thuộc vào độ dốc của đường cong cung và cầu.


Như vậy, nếu độ cận biên thị trường giảm đi trong khi chất lượng sản phẩm vẫn như cũ thì hiệu quả của hệ thống dây chuyền thị trường sẽ tăng lên.


Trong mỗi dây chuyền của hệ thống thị trường, mỗi đoạn mắt xích của dây chuyền lại làm tăng giá trị cho sản phẩm ở mắt xích tiếp theo. Đến lượt nông dân thì làm tăng giá trị các yếu tố đầu vào mà họ mua về. Như vậy, giá cả mà nông dân chấp nhận cùng với lượng sản phẩm bán ra của họ phụ thuộc rất nhiều vào kết qủa hoạt động của các doanh nghiệp đứng trước và sau họ trong dây chuyền marketing.


2.   Sự hình thành giá cả theo thời vụ.


Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tính thời vụ khá cao là nét đặc trưng nhất. Tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp thể hiện rõ ở sự biến động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của giá cả thị trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị trường nông nghiệp tập trung vào sự hình thành giá cả thị trường theo thời gian.


Trên hình 9.4, bên phải trục tung cho thấy sự cân bằng cung cầu và giá cả loại nông sản điển hình, ví dụ lúa gạo, trên thị trường cạnh tranh. Trong ví dụ này, đường cong cung và đường cong cầu cắt nhau tại Q1, P1. Đối diện qua trục tung, giá lúa gạo lúc trái vụ thì chạy dài qua bên trái. Trên trục hoành, đối diện qua gốc 0 về phía trái biểu diễn lượng cầu lúc trái vụ và do vậy đường cầu lúc trái vụ dốc xuống về phía trái và đối xứng với đường cầu lúc mùa vụ qua trục tung.



Lúc trái vụ, lượng cung bằng 0 tại điểm bắt đầu nhưng vẫn có nhu cầu về lúa gạo trong mọi thời điểm, nên lúc trái vụ nhu cầu về gạo được đáp ứng bằng lượng gạo dự trữ do lượng cung quá độ lúc mùa vụ cung cấp. Toàn bộ tình hình được mô tả ở hình 9.4. Trên hình 9.4 chưa có mô tả phí lưu kho. Như vậy, giá khởi điểm tối thiểu của gạo lúc trái vụ để thương nhân sẵn sàng bán phải cao hơn mức giá P2 (bằng giá mua vào lúc mùa vụ cộng thêm phí lưu kho). Nếu phí lưu kho là cao làm cho tổng chi phí của thương nhân gồm giá mua vào cộng với phí lưu kho cao hơn mức giá tối đa có thể có lúc trái vụ (mức giá P3 chẳng hạn), thì người kinh doanh lương thực sẽ bị thua lỗ, nếu càng thấp hơn thì họ càng có lợi nhuận hơn. Để tiện phân tích ta giả định là phí lưu kho bằng không.


Xem xét giá P1. Nếu giá P1 phổ biến suốt thời kỳ mùa vụ thì lượng cung sẽ cân bằng với lượng cầu trên thị trường, sẽ không có lúa gạo để mua dự trữ. Đường cung quá độ sẽ khởi điểm tại toạ độ 0, P1. Muốn có dự trữ, thương nhân phải trả giá cao hơn P1 (giá lúc mùa vụ), giả dụ giá P2. Khi đó, lượng cầu lúc mùa vụ giảm đi và lượng cung cho thị trường tăng thêm. Lượng cung quá độ này được thương nhân đưa vào dự trữ. Như vậy lượng cung quá độ để cung cấp cho thị trường lúc trái vụ chính là hàm số của giá lúa gạo lưu hành lúc mùa vụ. Trên hình vẽ, đường nét liền biểu diễn hàm số này trước khi gánh chịu mức chi phí kinh doanh của thương nhân do phải trả giá P2 cao hơn mức giá P1 của thị trường lúc mùa vụ; còn đường nét đứt biểu diễn hàm số đó sau khi có khoản chi phí này. Quan hệ giá cả – số lượng biểu thị lượng cung thị trường theo giá lúc trái vụ nên đường nét đứt phản ảnh giá lúa gạo tương đương phải có trong lúc trái vụ để bù đắp chi phí kinh doanh và có lợi nhuận của thương nhân.



Quan hệ cân bằng thị trường tại Q, P3 lúc trái vụ có thể được xác định bằng giá mà tại đó lượng cung quá độ lúc có mùa vụ bằng với lượng cầu lúc trái vụ. Theo thí dụ ở hình 9.4, lúc mùa vụ lượng cầu thị trường là Q2 và lượng cung thị trường là Q3. Hiệu số lượng cung và lượng cầu (Q3 – Q2) phải bằng lượng mà thương nhân mua dự trữ cung cho thị trường lúc trái vụ.


3.   Tình trạng độc quyền tương đối phổ biến trên thị trường nông nghiệp.


Nền nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước chịu tác động của qui luật cạnh trạnh thị trường. Về lý luận, có hai loại cạnh tranh thị trường trong nông nghiệp, đó là thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường độc quyền. Về mặt thực tiễn cho thấy, không phải mọi thị trường đều có tính chất cạnh tranh, mà ngược lại trong nông nghiệp, độc quyền một người bán và độc quyền một người mua là những nét đặc trưng của thị trường nông nghiệp. Với trường hợp độc quyền bán, ví dụ trên một vùng nông thôn rộng lớn chỉ có một công ty thương mại của Nhà nước đảm nhiệm phần lớn việc cung ứng phân bón, thuốc sâu và các vật tư nông nghiệp khác cho các hộ gia đình. Trường hợp độc quyền mua mang tính chất phổ biến hơn. Ví dụ, trên một vùng nào đó chỉ có một nhà máy chế biến mua nguyên liệu do nông dân sản xuất ra; hoặc mỗi ngành sản phẩm nông nghiệp chỉ có một hoặc hai công ty tham gia xuất khẩu nông sản ra thị trường thế giới.


Trên thị trường nông nghiệp, độc quyền tồn tại dưới hai trạng thái: độc quyền nhất thời và độc quyền lâu dài. Độc quyền nhất thời thường gắn với những điều kiện còn thiếu vắng cho một thị trường cạnh tranh hoàn hảo như trình độ công nghệ, khả năng quản lý không đều của các doanh nghiệp, điều kiện và kiến thức tiếp thị còn thiếu v.v… Độc quyền lâu dài thường gắn với những yếu tố phi kinh tế như ngăn sông cấm chợ giữa các vùng và các địa phận hành chính, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc chế biến sản phẩm hoặc không có những sản phẩm thay thế gần gũi.



Lý thuyết kinh tế học cũng đã chứng minh rằng khi làm cho một ngành hàng trở thành độc quyền có thể gây ra tình trạng sản lượng cung cấp ít đi, giá bán cho người tiêu dùng tăng lên và nhà kinh doanh thu được lợi nhuận độc quyền. Về lâu dài, tình trạng độc quyền có thể gây ra những tín hiệu sai lệch về giá cả và hiệu quả sản xuất, dẫn đến sự phân bổ và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong ngành nông nghiệp.


Cũng tương tự như trong các ngành kinh tế khác, trong nông nghiệp ngoài những độc quyền bắt buộc phải tồn tại, chủ yếu là các ngành dịch vụ cho nông nghiệp nông thôn như vận tải, cung cấp điện, điện thoại …, được Nhà nước cho phép các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ, còn trong các lĩnh vực khác, Nhà nước thường khống chế tình trạng độc quyền bằng hai hình thức chủ yếu sau đây:


Mộtlà, kiểm soát giá đối với các doanh nghiệp độc quyền. Trên thực tế, bên cạnh việc giao một số lĩnh vực độc quyền cho các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước thường qui định các giá tối đa cung cấp điện, xăng dầu, phân bón Urê… cho nông dân và qui định giá mua tối thiểu các nông sản mà các nhà máy chế biến hay cơ quan thương mại phải trả cho người bán. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, các yếu tố đầu vào của nông nghiệp chịu chi phối của giá quóc tế. Do vậy, khi áp dụng biện pháp kiểm soát giá độc quyền, thông thường Nhà nước phải chi ra một khoản chi từ Ngân sách Nhà nước.


Hai là, đánh thuế trọn gói đối với lợi nhuận độc quyền cao. Thực chất của chính sách này là chuyển dịch được một khoản tiền nhất định, có tính chất cố định vào ngân sách Nhà nước mà không ảnh hưởng gì đến giá cả và sản lượng của doanh nghiệp. Thực hiện chính sách này đòi hỏi có tài liệu đầy đủ về lượng cầu đầu vào và chi phí của doanh nghiệp độc quyền. Trong hoạt động thực tiễn, nếu có đủ các tài liệu về doanh nghiệp độc quyền, Nhà nước có thể quyết định thực hiện giá theo chi phí cận biên. Khi đó cần kết hợp đánh thuế trọn gói với phụ cấp theo đơn vị sản phẩm. Điều này khuyến khích tăng sản lượng và tăng thu vào ngân sách. Trong trường hợp nếu nhà nước đánh thuế trọn gói bằng mức phụ cấp chi trả cho mức sản lượng tối đa của doanh nghiệp sẽ vừa khuyến khích tăng sản lượng và vừa chống trục lợi giữa doanh nghiệp độc quyền và cán bộ nghiệp vụ thuế.



4.   Thị trường nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.


Môi trường thị trường mở cửa và hội nhập với bên ngoài là điều kiện thúc đẩy quá trình hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với thế giới và khu vực. Hiện nay Chính phủ ta đã cam kết trong các Hiệp định Quốc tế với lộ trình xác định, gồm: 1/ Hiệp định tham gia AFTA: Tới năm 2006 thuế suất, thuế nhập khẩu đối với tất cả mọi mặt hàng không vượt quá 5% (ví dụ đường mía năm 2006, thịt và các bộ phận nội tạng gia cầm năm 2005 …); Trong danh mục các nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL) có 51 nông sản có thời hạn cắt giảm thuế và hàng rào phi thuế chậm hơn, có thể sau năm 2006 nhưng đến năm 2013 thuế suất đối với toàn bộ nông sản chưa chế biến thuộc danh mục SEL không quá 5% và toàn bộ hàng rào phi thuế phải bãi bỏ. Như vậy, từ năm 2006 các nông sản chế biến và tới khoảng năm 2010 nhiều nông sản chưa chế biến có thể vào thị trường nước ta không bị cản trơ về thuế và hàng rào phi thuế. 2/ Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: Mặc dù được ký kết muộn hơn (tháng 7/2000) và thời gian thực hiện dài hơn (Việt Nam có thể duy trì biện pháp hạn chế định lượng đối với nhiều loại nông sản nhập khẩu từ Mỹ tới khoảng 2006, trong đó có sản phẩm thịt và chế phẩm dùng sản xuất thức ăn động vật nuôi), nhưng từ năm 2004 – 2006 các doanh nghiệp Mỹ được phép kinh doanh nhập khẩu và phân phối một số sản phẩm, trong đó có động vật sống ở thị trường Việt Nam. 3/  Nước ta cũng đã chấp thuận yêu cầu tự do hoá thương mại của IMF và WB theo hướng bỏ các hạn chế định lượng với AFTA trên cơ sở qui chế tối huệ quốc vào năm 2003. 4/ Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, nước ta có thể phải cam kết ràng buộc về thuế quan đối với tất cả mọi hàng nông sản tại thời điểm gia nhập, theo đó mức thuế xuất nhập khẩu đối với tất cả các hàng nông sản sẽ thấp (theo kinh nghiệm Trung Quốc mức này là 36,2% năm 1992 còn 17,4% năm 1998 và dự định giảm còn 14,5% năm 2005). Về các hàng rào phi thuế, tại thời đIểm gia nhập nước ta phải loại bỏ mọi biện pháp hạn chế định lượng như hạn ngạch hay giấy phép xuất khẩu. Hơn nữa, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ dần dần được phép tham gia kinh doanh phân phối các loại nông sản trên thị trường nước ta. Về hỗ trợ trong nước, các nước thành viên đang phát triển chỉ được phép hỗ trợ cho một ngành nông nghiệp nào đó không quá 10% tổng giá trị của ngành nông nghiệp đó. Về trợ cấp xuất khẩu, nước ta có thể phải cam kết không trợ cấp xuất khẩu nông sản, nhưng với thành viên đang phát triển thì chúng ta vẫn có thể trợ cấp cho các khâu liên quan đến vận tải, đóng gói hoặc tiếp thị. Về các biện pháp kiểm dịch động vật nuôi trồng, ta phải cam kết thực hiện các qui định của WTO, nghĩa là không thể lợi dụng các biện pháp này nhằm mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước.


Trong khuôn khổ của các cam kết để hội nhập như trên, có thể nói thị trường nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình đổi mới trên nhiều phương diện như: cung, cầu, cạnh tranh, các công cụ điều tiết v.v… cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Như vậy , việc hội nhập hoàn toàn và đúng lộ trình thời gian là đòi hỏi bắt buộc của đổi mới cơ chế thị trường cho phát triển nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.



Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • ph
  • ,
    Previous
    Next Post »