Khái quát về tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu cao su củaViệt Nam



1.Đặc điểm của cao su.


Cao su (danh pháp khoa học: Hevea brasiliensis), là một loài cây thân gỗ thuộc về họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên có tầm quan trọng kinh tế lớn nhất trong chi Hevea. Nó có tầm quan trọng kinh tế lớn là do chất lỏng chiết ra tựa như nhựa cây của nó (gọi là nhựa mủ-latex) có thể được thu thập lại như là nguồn chủ lực trong sản xuất cao su tự nhiên.


Cao su là một loại vật liệu polime vừa có độ bền cơ học cao và khả năng biến dạng đàn hồi lớn.


Có hai loại cao su: Cao su tự nhiên và cao su tổng hợp.


–         Cao su tự nhiên hay cao su thiên nhiên là loại vật liệu được san xuất trực tiếp từ mủ cây cao su


–         Cao su tổng hợp là những vật liệu polime tương tự cao su thiên nhiên, do con người điều chế từ các chất hữu cơ đơn giản, thường bằng phản ứng trùng hợp. Cao su tổng hợp là một sản phẩm từ quá trình craking dầu mỏ, do đó,  giá cả cao su tổng hợp phụ thuộc rất nhiều vào giá dầu mỏ.


Theo hệ thống phân loại Hài Hoà (HS), cao su tự nhiên (4001) được chia thầnh các phân nhóm chủ yếu sau:


–         4001.10: Mủ cao su tự nhiên, đã hoặc chưa tiền lưu hoá, được sử dụng để sản xuất bao tay, bong bóng…


Mủ cao su được chia làm hai loại: Loại có hàm lượng Amoniac thấp và loại có hàm lượng Amoniac cao.


Mủ tờ xông khói  (USS) : Người trồng cao su có thể sản xuất USS bằng cách cô dọng mủ cao su, kéo thành tấm và cuộn tròn lại sau khi đã được làm khô ngoài không khí.


–         4001.21: Cao su xông khói (RSS) là một dạng mủ cao su được sấy khô bằng khói hoặc nhiệt độ dưới dạng tấm, thường gặp các loại như RSS1, RSS2,…,RSS6. Cao su tấm xông khói có độ bền cao, thích hợp cjo việc sản xuất lốp xe, phà cho xe tăng và các sản phẩm công nghiệp khác.


–         4001.22 : Cao su tự nhiên định chuẩn kĩ thuật (TSNR) được phân loại theo tiêu chuẩn cao su – qui định kĩ thuật TSR của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO.


–         4001.29 : Các loại khác như:


+ Cao su tấm khô bề ngoài trông giống cao su tấm xông khói nhưng sáng hơn do không qua xông khói. ADS được sản xuất trong nhà máy nhỏ sử dụng mủ cao su tươi mua của nông dân, Thị trường nhỏ vì loại cao su này  chỉ dành cho công nghệ sử dụng cuối cùng trong sản xuất các loại sản phẩm cao su có mầu.


+ Váng xốp là sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất mủ cao su.


+ Cao su Crepe là mủ cao su dạng lỏng, được tẩy trắng, được nghiền nhiều lần, được làm khô nhờ nhiệt độ tự nhiên. Cao su Crepe được dùng dể sản xuất các dụng cụ y tế, giày dép và bất cứ sản phẩm nào đòi hỏi những đặc tính như sáng màu, nhẹ, độ co giãn tốt.


+ Mủ latex li tâm: Mủ cô đặc được làm từ mủ tươi sử dụng công nghệ li tâm. Mủ cô đặc được sử dụng sản xuất các đồ dùng ngâm nước.


+ Cao su miếng vụn.


–         4001.30 : Nhựa cây balata, nhựa két, nhựa cây cúc cao su, nhựa cây họ sacolasea và các loại nhựa thiên nhiên tương tự .


–         SVR : Cao su tiêu chuẩn Việt Nam, có các loại SVR3L, SVR5L, SVR10L, SVR20L,SVR50,60


Sau khi khai thác, mủ cao su tươi có thể được bán trực tiếp cho nhà máy chế biến. Giá trị được tính theo hàm lượng cao su khô của mủ tươi. Vì thế, việc bán cao su tươi yêu cầu phải xác định DRC. DRC bị ảnh hưởng bởi giống cây, tuổi cây  và thời gian thu hoạch trong năm.


         Cao su đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam sau gạo và cà phê. Thế nhưng chính thành tích này cũng đang đặt ngành cao su Việt Nam đối diện với nhiều khó khăn, thách thức.


2. Tình hình sán xuất, chế biến và xuất khẩu cao su của Việt Nam.


Tại Việt Nam, sản xuất và xuất khẩu cao su có tốc độ phát triển mạnh trong những năm gần đây. Hiện Việt Nam xuất khẩu cao su đến 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới với thị trường xuất khẩu lớn nhất là Trung Quốc (chiếm tới 64% lượng xuất khẩu), tiếp theo là Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, Hoa Kỳ… Từ năm 1995, số lượng cao su thiên nhiên Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc khá lớn và có sự tăng vọt từ năm 2005 đến nay. Sở dĩ vì nhu cầu cao su thiên nhiên của Trung Quốc là 1,7 triệu tấn/năm, trong khi sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu phát triển của ngành công nghiệp chế biến. Các cơ quan quản lý kỳ vọng nhiều vào sự tăng trưởng ở giá trị , bởi dự báo giá cao su trên thế giới vẫn duy trì ở mức tăng cao, do sản lượng trên thế giới thâm hụt nhiều. Theo khuyến cáo của Bộ Công Thương, để tránh việc bị chi phối do tập trung quá lớn vào thị trường Trung Quốc, các DN xuất khẩu cao su nên khai thác, đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cao su năm 2007 có mức tăng trưởng rất lớn vào thị trường Nga, đặc biệt về giá, ví dụ loại cao su SVR tăng tới 165 USD/tấn, Thổ Nhĩ Kỳ tăng trên 130 USD/tấn, tiếp theo mới là Trung Quốc khoảng trên 70 USD/tấn, Nhật Bản tăng 64 USD/tấn…


Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xuất khẩu gần 660.000 tấn cao su, đạt kim ngạch hơn 1,2 tỷ USD, tăng 78% so với cả năm trước và là mức cao nhất từ trước tới nay. Với kết quả này, cao su đã vươn lên vị trí thứ ba trong số các mặt hàng nông lâm sản đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chỉ sau gạo và gỗ. Dự kiến trong tháng 12, cả nước sẽ khai thác, chế biến và xuất khẩu thêm trên 70.000 tấn mủ cao su.


Ngoài cao su SVR 3L chiếm trên 50% lượng xuất khẩu, các đơn vị xuất khẩu còn nâng tỷ lệ chế biến các loại cao su khác có giá trị xuất khẩu cao hơn như các loại SVR10 từ 10% lên 20%, mủ Latex lên 17%./


Trong năm qua, nhiều địa phương trong cả nước đã tích cực mở rộng diện tích trồng cao su (chủ yếu là cao su tiểu điền), đưa tổng diện tích cây cao su trên cả nước tăng lên hơn 480.000ha. Các công ty cao su quốc doanh và các hộ trồng cao su tiểu điền cũng đã thực hiện nhiều biện pháp kỹ thuật để chăm sóc, thâm canh và khai thác diện tích cao su đang trong thời kỳ thu hoạch, nâng cao năng suất thu hoạch mủ.


Để nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu, phần lớn trong khoảng 70 nhà máy chế biến mủ cao su của cả nước đều đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại.


Tổng Công ty Cao su Việt Nam hiện có 37 nhà máy chế biến mủ với công suất trên 330.000 tấn/năm, trong đó có 12 nhà máy chế biến được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế.


Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Hiệp hội Cao su cho biết sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, đăng ký bảo hộ thương hiệu và triển khai các chương trình xúc tiến thương mại

Previous
Next Post »